bên thắng cuộc phần 2 chương 22
Bên Thắng Cuộc - Huy Đức ~ Chương 0 Phần I: Miền Nam – Chương 1: 30 Tháng Tư Chương 22: Thế Hệ Khác.
PHẦN III. Dấu ấn Nguyễn Văn Linh; 12. Cởi trói; 13. Đa nguyên; 14. Khoảng cách Linh - Kiệt; 15. Tướng Giáp; PHẦN IV. Tam nhân; 16. Thị trường; 17. Tam quyền không phân lập; 18. Tam nhân phân quyền; 19. Đại hội VIII; 20. Lê Khả Phiêu và ba ông cố vấn; 21. Định hướng xã hội chủ
Phần còn lại của cuốn II chủ yếu viết về những gì diễn ra bên trong Ba Đình thời thập niên 1990. Thời mà ý thức hệ không chỉ tồn tại như một đức tin của những người cầm quyền mà còn trở thành những công cụ chính trị phục vụ cho quyền lực. Tuy nhiên, Quyền
Bên thắng cuộc PDF của nhà báo Huy Đức bao gồm 2 phần: Chiến thắng và Quyền Bính, tường thuật lại những sự kiện đã xảy ra tại Việt Nam, đặc biệt là về mặt chính trị và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ yếu từ thời điểm 30/4/1975 tại Việt Nam cho
Chương 533: Cuộc thi tái tạo chu tước cung (2) Chương 532: Cuộc thi tái tạo chu tước cung (1) Chương 531: Bản thiết kế; Chương 530: Nhiệm vụ chiến thắng cuộc thi thợ rèn; Chương 529: Bữa sáng ngon miệng; Chương 528: Hội lừa đảo bị lừa đảo; Chương 527: Hội lừa đảo (2)
Site De Rencontre Haut De Gamme Suisse. Cho dù trong Bộ chính trị khoá X 2006-2011 vẫn có những người trưởng thành qua chiến tranh, họ bắt đầu thuộc thế hệ “làm cán bộ” chứ không còn là thế hệ của những “nhà cách mạng”. Nếu có khả năng nắm bắt các giá trị của thời đại và có khát vọng làm cho người dân được ngẩng cao đầu, họ hoàn toàn có cơ hội chính trị để đưa Việt Nam bước sang một trang sử mới. Ngay cả khi duy trì phương thức nắm giữ quyền bính tuyệt đối hiện thời, nếu lợi ích của nhân dân và sự phát triển quốc gia được đặt lên hàng đầu, họ có thể trao cho người dân quyền sở hữu đất đai, lấy đa sở hữu thay cho sở hữu toàn dân; họ có quyền chọn phương thức kinh tế hiệu quả nhất làm chủ đạo thay vì lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Vẫn còn quá sớm để nói về họ. Khi cuốn sách này ra đời, họ vẫn đang nắm giữ trong tay mình vận hội của chính họ và đất nước. Người kế nhiệm Theo ông Phan Văn Khải, khi thăm dò ý kiến chuẩn bị nhân sự cho Đại hội X, các ban ngành đánh giá ông Vũ Khoan cao hơn. Một trong những “ban, ngành” nhiệt tình ủng hộ ông Vũ Khoan là Ban Nghiên cứu của thủ tướng. Thời ông Phan Văn Khải, trước khi chính phủ ban hành bất cứ văn bản nào, thủ tướng cũng đều chuyển cho Ban Nghiên cứu xem trước. Các văn bản hay bị Ban Nghiên cứu có ý kiến lại thường được đưa lên từ Văn phòng Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng. Ông Khải thừa nhận, thâm tâm ông cảm tình với ông Vũ Khoan hơn, tuy nhiên, phần vì Vũ Khoan bị coi là thiếu thực tế trong nước, phần vì ông đã lớn tuổi – Vũ Khoan sinh năm 1937, cùng năm sinh với các ông Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An – nên việc giới thiệu ông là gần như không thể. Nhưng, chủ yếu, theo ông Khải “Tương quan lực lượng không cho phép”. Ngày 28-6-2006, Quốc hội bỏ phiếu bầu ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng. Trước khi rời nhiệm sở, ông Phan Văn Khải tổ chức một buổi gặp mặt toàn thể Ban Nghiên cứu với sự có mặt của thủ tướng mới được bầu Nguyễn Tấn Dũng. Tiếp lời ông Phan Văn Khải, trong một diễn văn ngắn, ông Dũng cũng đã dùng những từ ngữ tốt đẹp để nói về Ban Nghiên cứu và tương lai cộng tác giữa ông và các thành viên. Cũng trong cuộc gặp này, ý tưởng hình thành Văn phòng thủ tướng trong Văn phòng Chính phủ đã được cả ông Khải và ông Dũng cùng ủng hộ. Trong đúng một tháng sau đó, công việc của Ban vẫn tiến hành đều đặn. Chiều 27-7-2006, ông Trần Xuân Giá được mời lên phòng thủ tướng. Ông Giá nhớ lại, đó là một cuộc làm việc vui vẻ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đồng ý để Giáo sư Đào Xuân Sâm, lúc ấy đã lớn tuổi, nghỉ hưu và ông cũng tỏ ra không bằng lòng với việc Tiến sỹ Lê Đăng Doanh vẫn hay phát biểu với vai trò thành viên của Ban Nghiên cứu. Cuộc nói chuyện kéo dài tới 17 giờ ngày 27, Thủ tướng thân tình đến mức ông Giá tạm thời gạt qua kế hoạch nghỉ hưu và trở về ngồi vẽ sơ đồ tổ chức văn phòng thủ tướng và chuẩn bị kế hoạch củng cố Ban Nghiên cứu. Hôm sau, ngày 28-7-2006, khi ông Trần Xuân Giá đến cơ quan ở đường Lê Hồng Phong thì thấy Văn phòng vắng vẻ, nhân viên lúng túng tránh nhìn thẳng vào mắt ông. Ông Trần Xuân Giá làm tiếp một số việc rồi về nhà. Vào lúc 16 giờ cùng ngày, ông nhận được quyết định nghỉ hưu và quyết định giải thể Ban Nghiên cứu do văn thư mang tới. Cả hai cùng được chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký vào ngày 28-7-2006, tức là chỉ ít giờ sau khi ngồi “hàn huyên” với ông Trần Xuân Giá. Theo ông Giá thì ông là người cuối cùng trong Ban Nghiên cứu nhận được quyết định này. Ông Nguyễn Tấn Dũng sinh tại Cà Mau năm 1949. Mới mười hai tuổi đã theo cha vào “bưng” làm liên lạc, ông biết chữ chủ yếu nhờ các lớp bổ túc ở trong rừng do địa phương quân tổ chức. Sau đó, ông Dũng được đưa đi cứu thương rồi làm y tá cho Tỉnh đội. Ngày 30-4-1975, Nguyễn Tấn Dũng là trung uý, chính trị viên Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá. Đầu thập niên 1980, theo ông Lê Khả Phiêu “Khi ấy, tôi là Phó chính uỷ Quân khu IX, trực tiếp gắn quân hàm thiếu tá cho anh Nguyễn Tấn Dũng. Năm 1981, khi anh Dũng bị thương ở chiến trường Campuchia, tôi cho anh về nước đi học”. Năm 1983, từ trường Nguyễn Ái Quốc trở về, ông Dũng ra khỏi quân đội, bạn bè của cha ông, ông Nguyễn Tấn Thử, đã bố trí ông Dũng giữ chức phó Ban Tổ chức Tỉnh uỷ. Nhưng vị trí giúp ông có một bước nhảy vọt trong con đường chính trị là chức vụ mà ông nhận sau đó bí thư Huyện uỷ Hà Tiên. Sau Đại hội V, ông Lê Duẩn có ý tưởng cơ cấu một số cán bộ trẻ và một số cán bộ đang là bí thư các pháo đài huyện’ vào Trung ương làm uỷ viên dự khuyết như một động thái đào tạo cán bộ. Ông Nguyễn Đình Hương1 nhớ lại “Trước Đại hội VI, tôi được ông Lê Đức Thọ phân công trực tiếp về địa phương gặp các ứng cử viên. Phía Nam có anh Nguyễn Tấn Dũng, bí thư huyện Hà Tiên, cô Hai Liên, bí thư huyện uỷ Thống Nhất, Đồng Nai, cô Trương Mỹ Hoa, bí thư quận Tân Bình; phía Bắc có cô Nguyễn Thị Xuân Mỹ, bí thư Quận uỷ Lê Chân, Hải Phòng”. Sau Đại hội VI, ông Nguyễn Tấn Dũng rời “pháo đài” Hà Tiên về Rạch Giá làm phó bí thư thường trực rồi Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Tỉnh. Trước Đại hội Đảng lần thứ VII, khi chuẩn bị cho Đại hội Tỉnh Đảng bộ Kiên Giang, ông Lâm Kiên Trì, một cán bộ lãnh đạo kỳ cựu của tỉnh từ chức, mở đường cho ông Nguyễn Tấn Dũng lên bí thư. Theo ông Năm Loan, khi ấy là uỷ viên thường vụ, trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Kiên Giang “Ông Đỗ Mười vào T78, triệu tập Thường vụ Tỉnh uỷ lên họp, duyệt phương án nhân sự và quyết định đưa Nguyễn Tấn Dũng lên làm bí thư”. Năm ấy ông Dũng bốn mươi hai tuổi. Trong một nền chính trị, mà công tác cán bộ được giữ bí mật và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn của một vài nhà lãnh đạo, các giai thoại lại xuất hiện để giải thích sự thăng tiến mau lẹ của một số người. Trong khi dư luận tiếp tục nghi vấn ông Nông Đức Mạnh là “con cháu Bác Hồ”2, một “huyền thoại” khác nói rằng, cha của ông Nguyễn Tấn Dũng đã “chết trên tay ông Lê Đức Anh” và trước khi chết có gửi gắm con trai cho Bí thư Khu uỷ Võ Văn Kiệt và Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh. Trên thực tế, cha ông Nguyễn Tấn Dũng là ông Nguyễn Tấn Thử, thường gọi là mươi Minh, đã mất trước khi hai ông Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh đặt chân xuống Quân khu IX. Ngày 16-4-1969, một trái bom Mỹ đã ném trúng hầm trú ẩn của Tỉnh đội Rạch Giá làm chết bốn người trong đó có ông Nguyễn Tấn Thử khi ấy là chính trị viên phó Tỉnh đội. Một trong ba người chết còn lại là ông Chín Quý, chính trị viên Tỉnh đội. Trong khi, đầu năm 1970, ông Lê Đức Anh mới được điều về làm tư lệnh Quân khu IX còn ông Kiệt thì mãi tới tháng 10-1970 mới xuống miền Tây. Họ có nghe nói đến vụ ném bom làm chết ông Chín Quý và ông Mười Minh nhưng theo ông Kiệt thì cả hai ông đều chưa từng gặp ông Mười Minh Nguyễn Tấn Thử. Mãi tới năm 1991, trong đại hội đại biểu tỉnh đảng bộ Kiên Giang, ông Võ Văn Kiệt mới thực sự biết rõ về ông Nguyễn Tấn Dũng và cho tới lúc này ông Kiệt vẫn muốn ông Lâm Kiên Trì, một người mà ông biết trong chiến tranh, tiếp tục làm bí thư Tỉnh uỷ Kiên Giang. Ông Nguyễn Tấn Dũng được điều ra Hà Nội tháng 1-1995, ông bắt đầu với chức vụ mà xét về thứ bậc là rất nhỏ thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trước Đại hội VIII, theo ông Lê Khả Phiêu “Khi làm nhân sự Bộ Chính trị, anh Nguyễn Tấn Dũng gặp tôi, nói Anh em miền Nam yêu cầu tôi phải tham gia Bộ Chính trị’. Trong khi, thứ trưởng thường trực là anh Lê Minh Hương thì băn khoăn Ngành công an không thể có hai anh ở trong Bộ Chính trị’. Tôi bàn, anh Lê Minh Hương tiếp tục ở trong Bộ Công an, anh Nguyễn Tấn Dũng chuyển sang Ban Kinh tế”. Tháng 6-1996, ông Dũng được đưa vào Bộ Chính trị phụ trách vấn đề tài chính của Đảng. Cho dù, theo ông Lê Khả Phiêu, ông Dũng đắc cử Trung ương với số phiếu thấp và gần như “đội sổ” khi bầu Bộ Chính trị nhưng vẫn được đưa vào Thường vụ Bộ Chính trị, một định chế mới lập ra sau Đại hội VIII, vượt qua những nhân vật có thâm niên và đang giữ các chức vụ chủ chốt như Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải. Ông Nguyễn Đình Hương giải thích “Nguyễn Tấn Dũng được ông Đỗ Mười đưa đột biến vào Thường vụ Bộ Chính trị chỉ vì ông Đỗ Mười có quan điểm phải nâng đỡ, bồi dưỡng, con em gia đình cách mạng. Tấn Dũng vừa là một người đã tham gia chiến đấu, vừa là con liệt sỹ, tướng mạo cũng được, lại vào Trung ương năm mới ba mươi bảy tuổi”. Ngay cả khi đã ở trong Thường vụ Bộ Chính trị, ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một con người hết sức nhã nhặn. Ông không chỉ cùng lúc nhận được sự ủng hộ đặc biệt của các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, mà những ai biết ông Dũng vào giai đoạn này đều tỏ ra rất có cảm tình với ông. Theo ông Phan Văn Khải “Nguyễn Tấn Dũng được cả ba ông ủng hộ, đặc biệt là ông Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Tấn Dũng cũng biết cách vận động. Năm 1997, trước khi lui về làm cố vấn, cả ba ông thậm chí còn muốn đưa Tấn Dũng lên thủ tướng, tuy nhiên khi thăm dò phiếu ở Ban Chấp hành Trung ương cho cương vị này, ông chỉ nhận được một lượng phiếu tín nhiệm thấp”. Kinh tế tập đoàn Trước Đại hội Đảng lần thứ X, tháng 4-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng được Bộ Chính trị phân công làm tổ trưởng biên tập “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010”. Khi chủ trì các buổi thảo luận, ông Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu đưa vào văn kiện chủ trương tổ chức doanh nghiệp nhà nước theo hướng kinh doanh đa ngành. Theo ông Trần Xuân Giá, tổ phó biên tập “Cho doanh nghiệp nhà nước kinh doanh đa ngành là ngược lại với chủ trương lâu nay của chính phủ nên chúng tôi không dự thảo văn kiện theo chỉ đạo của ông Nguyễn Tấn Dũng. Đến gần đại hội, ông Dũng cáu, ông viết thẳng ra giấy ý kiến của ông rồi buộc chúng tôi phải đưa nguyên văn vào Báo cáo, phần nói về doanh nghiệp nhà nước Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”. Lúc ấy, ông Nguyễn Tấn Dũng đã có đủ phiếu ở Ban Chấp hành Trung ương để tiến đến chiếc ghế thủ tướng. Ông khát khao tạo dấu ấn và nôn nóng như những gì được viết trong Báo cáo Kinh tế mà ông chủ trì “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Mặc dù từ năm 1994, Quyết định số 91/TTg của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói đến việc “thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh” nhưng cho đến năm 2005, Việt Nam chưa có một tập đoàn nào ra đời. Cuối nhiệm kỳ, Thủ tướng Phan Văn Khải cho thành lập hai tập đoàn Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam ngày 26-12-2005 và Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam Vinashin ngày 15-5-2006. Hai tháng sau khi nhận chức, ngày 29-8-2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho ngành dầu khí được nâng lên quy mô tập đoàn, PetroVietnam, ngày 30-10-2006 thành lập Tập đoàn Công nghiệp Cao su, ngày 9-01-2006 thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông. Tốc độ thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước có chững lại sau khi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một thư ngỏ đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, yêu cầu thận trọng vì theo ông, trong khi những yếu kém của mô hình tổng công ty 90, 91 chưa được khắc phục mà lại làm phình to chúng ra bằng các quyết định hành chính là không hợp lý. Ông Võ Văn Kiệt viết “Các doanh nghiệp nhà nước của ta có truyền thống dựa vào bao cấp nhiều mặt, không dễ từ bỏ thói quen cũ, nếu từ bỏ thói quen cũ cũng không dễ đứng vững trong thế cạnh tranh… Không có gì đảm bảo khi các tập đoàn được thành lập sẽ hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp hiện nay”3. Trong khoảng thời gian từ khi ông Võ Văn Kiệt mất, tháng 6-2008, cho đến năm 2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kịp nâng số tập đoàn kinh tế nhà nước lên con số mười hai. Nhưng chính sách cho tập đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh đa ngành chứ không phải số lượng tập đoàn kinh tế nhà nước mới là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Theo ông Phan Văn Khải “Khi thành lập Tập đoàn Vinashin, tôi nghĩ, đất nước mình có bờ biển dài hơn phát triển ngành công nghiệp đóng tàu là cần thiết nhất là khi ngành công nghiệp này đang được chuyển dịch từ các nước Bắc Âu về Trung Quốc, Hàn Quốc. Chính tôi quyết định đầu tư cho Vinashin khoản tiền bán trái phiếu chính phủ hơn 700 triệu USD. Nhưng, sau đó thì không chỉ Vinashin mà nhiều tập đoàn khác cũng phát triển ồ ạt nhiều loại ngành nghề, ở đâu cũng thấy đất đai của Vinashin và của các tập đoàn nhà nước”. Theo ông Trần Xuân Giá “Ông Nguyễn Tấn Dũng coi doanh nghiệp nhà nước như một động lực phát triển, nhưng phát triển doanh nghiệp nhà nước theo cách của ông Dũng không hẳn chỉ để làm vừa lòng ông Đỗ Mười”. Cho phép các tập đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh đa ngành cũng như tháo khoán các kênh đầu tư mà nguồn vốn cho khu vực này lại thường bắt đầu từ ngân sách. Ông Phan Văn Khải giải thích “Nguyễn Tấn Dũng muốn tạo ra một thành tích nổi bật ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình. Tấn Dũng muốn hoàn thành kế hoạch 5 năm chỉ sau bốn năm. Ngay trong năm 2007, ông đầu tư ồ ạt. Tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn, bất ổn vĩ mô bắt đầu”. Theo ông Trần Xuân Giá “Thời Thủ tướng Phan Văn Khải, mỗi khi tổng đầu tư lên tới trên 30% GDP là lập tức thủ tướng được báo động. Trước năm 2006, năm có tổng đầu tư lớn nhất cũng chỉ đạt 36%. Trong khi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ngay sau khi nhận chức đã đưa tổng mức đầu tư lên 42% và đạt tới 44% GDP trong năm 2007”. Cho tới lúc đó những ý kiến can gián thủ tướng cũng chủ yếu xuất phát từ các thành viên cũ của Ban Nghiên cứu như Trần Xuân Giá, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan. Nhưng tiếng nói của họ không còn sức mạnh của một định chế sau khi Ban Nghiên cứu đã bị giải tán. Cả ba sau đó còn nhận được các khuyến cáo một cách trực tiếp và nhiều cơ quan báo chí trong nhiều tháng không phỏng vấn hoặc đăng bài của những chuyên gia này. Năm 2006, tăng trưởng tín dụng ở mức 21,4% nhưng con số này lên tới 51% trong năm 20074. Kết quả là lạm phát cả năm ở mức 12,6%. Các doanh nghiệp, các ngân hàng bắt đầu nhận ra những rủi ro, từng bước kiểm soát vốn đầu tư vào chứng khoán và địa ốc. Nhưng đầu năm 2008, Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dường như hoảng sợ khi lạm phát lên tới gần 3% mỗi tháng và những “liệu pháp” được đưa ra sau đó đã khiến cho nền kinh tế dồn dập chịu nhiều cú sốc. Cuối tháng 1-2008, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại phải tăng dự trữ bắt buộc từ 10 lên 11%. Để có ngay một lượng tiền mặt lên tới khoảng tỷ đồng nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ, các ngân hàng thương mại cổ phần buộc lòng phải tăng lãi suất huy động. Lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng mấy ngày cuối tháng 1-2008 tăng vọt lên tới 27%, trong khi đầu tháng, con số này chỉ là 6,52%. Ngày 13-2-2008, Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các ngân hàng thương mại phải mua một lượng tín phiếu trị giá tỷ đồng. Áp lực tiền bạc đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng. Thoạt đầu, các tổng công ty nhà nước rút các khoản tiền đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng quốc doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần. Chỉ trong ngày 18-2-2008, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn tỷ đồng. Các ngân hàng quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền lãi suất thấp từ Nhà nước đem cho các ngân hàng nhỏ vay lại, nay thiếu tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này. “Cơn khát” tiền toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng có khi lên tới trên 40%. Lãi suất huy động tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng buộc khách hàng chấp nhận lãi suất lên tới 24 – 25%, cao hơn nhiều mức mà Luật Dân sự cho phép. Các doanh nghiệp cũng “khát” tiền mặt, tình trạng bán hàng dưới giá, hoặc vay với lãi suất cao đang khiến cho chi phí sản xuất tăng đột biến. Không có gì ngạc nhiên khi lạm phát ba tháng đầu năm 2008 lên tới 9,19%. Các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước nói là chống lạm phát, nhưng đã trực tiếp làm “mất giá” đồng tiền khi đặt các ngân hàng trong tình thế phải nâng lãi suất. Ngày 25-3-2008, Ngân hàng Nhà nước lại khiến cho tình trạng khan hiếm tiền mặt thêm nghiêm trọng khi yêu cầu thu về tỷ đồng của ngân sách đang được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm, thấp hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường tín dụng. Khoản tiền này theo nguyên tắc phải được chuyển vào Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, từ mười năm trước, theo “sáng kiến” của Bộ Tài chính, nó đã được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay. Một mặt, nó tạo ra sự bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh, một mặt làm cho nền kinh tế lập tức rơi vào khủng hoảng do tín dụng bị cắt đột ngột và những khoản vay còn lại thì phải chịu lãi suất cao. Thị trường chứng khoán nhanh chóng hiển thị “sức khỏe” của nền kinh tế. Từ mức trên 1000, ngày 6-3-2008, chỉ số VN-index xuống còn 611. Cho dù Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cố dùng uy tín chính trị của mình để cứu vãn bằng cách tuyên bố rằng đầu tư vào chứng khoán bây giờ là thắng vì đã xuống đến đáy nhưng chỉ hai mươi ngày sau, 25-3- 2008, chỉ số VN-index chỉ còn 492 điểm. Ngày 5-12-2008, VN-index chỉ còn 299 điểm. Xuất khẩu quý 1-2008 vẫn tăng 23,7%; nhập khẩu tăng 60,7%. Tại Sài Gòn, kinh tế vẫn tăng trưởng khá, ngân sách quý I vẫn thu tăng 72,6%. Nhưng các biện pháp chống lạm phát đã làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh hơn nửa năm trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu. Từ cuối năm 2008, khuynh hướng quay trở lại nền kinh tế chỉ huy càng tăng lên cho dù điều này là vô vọng vì ở giai đoạn này, đóng góp của khu vực tư nhân cho nền kinh tế đã vượt qua con số 50% GDP của Việt Nam. Dù vậy, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vẫn liên tục ban hành các mệnh lệnh hành chánh hòng kiểm soát trần lãi xuất, kiểm soát thị trường ngoại tệ, thị trường vàng5. Khi ông Đỗ Mười nhận chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, để có ngoại tệ, Chính phủ phải cho một nhà đầu tư của Nhật thuê khu nhà khách ven hồ Thiền Quang. Khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhận chức thủ tướng, Việt Nam có một khoản dự trữ ngoại tệ lên tới 23 tỷ đôla. Nhưng, di sản lớn hơn mà Thủ tướng Phan Văn Khải trao lại cho ông Dũng là một Việt Nam đã hoàn thành thủ tục để gia nhập WTO. Trong khoảng thời gian 1996-2000, cho dù chịu mấy năm khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 7,5% trong khi lạm phát chỉ là 3,5%. Trong khoảng thời gian 2001-2005, lạm phát có cao hơn, 5,1%, nhưng tăng trưởng vẫn dương 7%. Chỉ sau mấy tháng nhận chức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đưa GDP tăng trưởng tới mức kỷ lục 8,5% vào tháng 12-2007; đồng thời cũng đã đưa lạm phát vào tháng 8-2008 lên tới 28,2%. Tháng 3-2009, tăng trưởng GDP rơi xuống đáy 3,1%. Trong sáu năm ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chứ Thủ tướng, mức tăng trưởng kinh tế luôn thấp hơn rất nhiều so với mức lạm phát. Năm 2007 GDP tăng trưởng ở mức 8,48% trong khi lạm phát lên tới 12,63%. Năm 2008 mức tăng trưởng giảm xuống 6,18% trong khi lạm phát là 19,89%. Năm 2009 GDP chỉ tăng 5,32% lạm phát xuống còn 6,52% do các nguồn đầu tư bị cắt đột ngột. Năm 2010 GDP tăng đạt mức 6,78% nhưng lạm phát tăng lên 11,75%. Năm 2011 tăng trưởng GDP giảm còn 5,89% trong khi lạm phát lên tới 18,13%. Năm 2012, nền kinh tế gần như ngưng trệ, lạm phát ở mức 6,81% nhưng GDP cũng xuống tới 5,03% thấp kỷ lục kể từ năm 19996. Nền kinh tế rơi vào tình trạng gần như không lối thoát. Nông Đức Mạnh Ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chức thủ tướng sau Đại hội Đảng lần thứ X, một đại hội mà ông Nông Đức Mạnh cảm nhận được áp lực thông qua vụ án PMU 18. PMU 18 là một cơ quan quản lý các dự án giao thông sử dụng các nguồn vốn ODA lên tới gần hai tỷ USD. Thoạt đầu, gần như tình cờ, cảnh sát bắt được một vụ đánh bạc từ đó thu giữ một máy tính có chứa các dữ liệu cho thấy, Bùi Tiến Dũng, tổng giám đốc PMU 18 đã từng đánh bạc, cá độ với số tiền lên tới 1,8 triệu USD. Nếu như vụ án “Năm Cam” hồi năm 2003 ảnh hưởng tới chính trị bởi cách triển khai mang tính anh hùng cá nhân thì vụ PMU 18 đã mang một màu sắc mới. Lực lượng công an biết sử dụng công cụ “làm án” của họ và các nhà chính trị cũng không còn để bị động. Kịch tính của vụ án PMU 18 được đẩy lên cao khi cơ quan điều tra cố tình rò rỉ các thông tin về sự dính líu của Thứ trưởng Bộ Giao thông Nguyễn Việt Tiến và những tin nhắn tình nghi chạy án liên quan đến Thiếu tướng Cao Ngọc Oánh, tổng cục phó Tổng cục Cảnh sát. Cả ông Tiến và ông Oánh đều là những người được Hội nghị Trung ương 13 đưa vào danh sách đề cử bầu Ban Chấp hành Trung ương. Đặc biệt, ông Nguyễn Việt Tiến đích thân được Tổng bí thư Nông Đức Mạnh giới thiệu. Cái gọi là “đường dây chạy án” được đồn đãi lúc đó còn nhắc tới Đặng Hoàng Hải, con rể Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đang làm chánh văn phòng cho Bùi Tiến Dũng. Ngày 14-4-2006, tức là chỉ chưa đầy hai tuần trước khi khai mạc Đại hội Đảng lần thứ X, ông Nguyễn Việt Tiến bị bắt. Ngoài hai ứng cử viên bị lỡ cơ hội vào Trung ương, Đại hội vẫn diễn ra như dự kiến, ông Nông Đức Mạnh vẫn được giữ ngồi lại ghế Tổng bí thư nhưng vụ PMU 18 đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần của ông. Nhiều tháng sau Đại hội, ông Mạnh gần như không ra khỏi khu Nguyễn Cảnh Chân. Các cáo buộc về ông Nguyễn Việt Tiến và ông Cao Ngọc Oánh hoá ra là bịa đặt. Các phóng viên trong một cuộc cạnh tranh khốc liệt đã đăng bất cứ thông tin gì được mớm từ cơ quan điều tra bắt đầu phải đối diện với một cuộc điều tra mới dưới sự chỉ đạo của tướng An ninh Nguyễn Văn Hưởng. Quyền bính bắt đầu vận hành theo một sắc thái mới. Lần đầu tiên trong nền chính trị Hà Nội, mối quan hệ giữa Thủ tướng và công an thực sự có ảnh hưởng qua lại. Ngoài Bộ trưởng Lê Hồng Anh xuất thân từ Kiên Giang, bên cạnh Thủ tướng luôn là tướng An ninh Nguyễn Văn Hưởng. Trong suốt gần hai năm sau đại hội, hơn hai mươi lăm phóng viên của gần như đủ các tờ báo quan trọng nhất bị điều tra. Ngày 12-5-2008, Nguyễn Văn Hải, phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nguyễn Việt Chiến, phóng báo Thanh Niên, bị bắt. Cùng với một cộng sự khác, tướng Nguyễn Xuân Quắc, cục trưởng Cục Cảnh sát Hình sự, người ra lệnh bắt ông Nguyễn Việt Tiến đã bị chính ông Nguyễn Tấn Dũng, ngay sau khi nhận chức Thủ tướng, ký quyết định cho nghỉ hưu khi vẫn còn dở dang công việc của một trưởng ban chuyên án. Ông Quắc sau đó còn bị khởi tố. Sau khi hai nhà báo phải lãnh án tù giam, theo yêu cầu của công an, Bộ Thông tin rút thẻ bốn nhà báo chủ chốt của hai tờ Thanh Niên, Tuổi Trẻ. Tổng Biên tập Tuổi Trẻ, ông Lê Hoàng, và Tổng Biên tập Thanh Niên, ông Nguyễn Công Khế, bị mất chức. Báo chí trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Nguyễn Tấn Dũng gần như không còn nhuệ khí để phản biện các chính sách và đề cập đến các thông tin liên quan đến tham nhũng. Trong khi đó, người đứng đầu bên Đảng là Nông Đức Mạnh lại thể hiện rất giới hạn quyền lực Tổng bí thư. Về sau, ông Phan Văn Khải cũng đã nuối tiếc khi ủng hộ ông Nông Đức Mạnh làm Tổng bí thư. Ông Khải nói “Ông Mạnh trình độ yếu lại thiếu bản lĩnh nên gần như không có tác dụng gì. Khi ông Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư, nếu điều gì đã thống nhất với tôi thì cho dù ra Bộ Chính trị có ý kiến khác ông vẫn bảo vệ nhưng ông Mạnh thì không. Gật gù với nhau nhưng khi thảo luận thấy có vài ý kiến hơi khác là ông im lặng”. Theo ông Lê Khả Phiêu “Sau Đại hội VIII khi anh Đỗ Mười giao cho tôi chuẩn bị nhân sự Bộ Chính trị và Thường vụ để bàn trước với các anh Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt. Nông Đức Mạnh gặp tôi nói em biết thân phận em rồi, người dân tộc chỉ có thể làm đến thế”7. Từ một người vô danh trên chính trường bỗng chốc được đặt vào ghế chủ tịch Quốc hội, ngay từ khi đó, Nông Đức Mạnh đã trở thành tâm điểm của những lời đồn đoán. Cha ông là Nông Văn Lại, mẹ ông là Hoàng Thị Nhị. Nhưng họ Nông của ông khiến nhiều người liên tưởng tới một người phụ nữ từng gặp gỡ Hồ Chí Minh, bà Nông Thị Trưng. Nhiều người còn cho rằng tuổi thật của ông là sinh năm 1942, một năm sau khi Hồ Chí Minh trở về hang Pac Bó, chứ không phải năm 1940, như ghi trong hồ sơ. Lại còn có giai thoại, năm 1965, khi ông đang là công nhân lâm trường, đích thân Đại tướng Võ Nguyễn Giáp lên gọi về đưa sang Liên Xô học8. Tại kỳ họp thứ tư của Quốc hội khoá IX, tháng 7-1994, trong giờ giải lao, phóng viên Huỳnh Ngọc Chênh của báo Thanh Niên phỏng vấn “Thưa, Chủ tịch có phải con của Bác Hồ?”. Ông Nông Đức Mạnh lúng túng mấy giây rồi trả lời “Người Việt Nam ta ai cũng là con cháu Bác Hồ cả”. Cho dù sau đó, ông Mạnh rất tức giận9 nhưng đấy là câu trả thông minh nhất trong suốt cuộc đời làm chính trị của ông. Từ đó cho đến khi làm Tổng bí thư, ông Mạnh trở thành một người lúc nào cũng “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” nhưng ăn nói nhạt nhẽo và có rất ít quyền lực. Ông xuất hiện trên truyền hình ở nhiều địa phương khác nhau với gần như chỉ có một câu nói “Các đồng chí phải tìm ra thế mạnh của địa phương là nên trồng cây gì và nuôi con gì”. Người lập hồ sơ để đưa ông Mạnh vào Trung ương, ông Nguyễn Đình Hương, nhận xét “Tôi cảm thấy rất xấu hổ vì Đảng ta có một Tổng bí thư như vậy, Nông Đức Mạnh chỉ có trình độ ở tầm cán bộ cấp huyện”. Theo ông Phan Văn Khải “Nhiều lần, đặc biệt là trước Đại hội Đảng lần thứ X, mấy ông cựu cố vấn đề nghị ông nghỉ nhưng ông Mạnh không chịu. Nhân sự thay thế cũng chưa rõ ràng nên các ông ấy cũng không kiên quyết”. “Phương án” Nguyễn Văn An Cố vấn Võ Văn Kiệt biết, cách làm nhân sự truyền thống sẽ không thể nào đưa một lãnh đạo trì trệ như Nông Đức Mạnh ra khỏi vị trí của mình. Ngày 11-1-2005, ông Kiệt viết thư đề nghị để “Đại hội đại biểu toàn quốc bầu trực tiếp chức danh Tổng bí thư… Áp dụng triệt để nguyên tắc tự do ứng cử, tự do đề cử… Người được bầu phải là người có năng lực và phẩm chất, không phân biệt tuổi tác, không theo cơ cấu vùng miền, không theo danh sách đã quy hoạch, không phân biệt giữa người ứng cử và người được để cử”. Ông cũng đề nghị “Đại hội X nên bầu ra đoàn chủ tịch gồm những đại biểu ưu tú thực sự có năng lực điều hành công việc của đại hội”, thay vì theo truyền thống, đại hội vẫn do Bộ Chính trị cũ điều hành. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã không cho lưu hành bức thư này trong Trung ương. Ông Kiệt, lúc ấy đang ở biệt thự Hồ Tây, cho Thư ký Nguyễn Văn Trịnh “xé rào”, phát hành tận tay nhiều uỷ viên Trung ương. Trong thư đề ngày 21-1-2005 gửi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, ông Kiệt giải thích “Tôi thấy không còn cách nào khác, vạn bất đắc dĩ tôi phải tự gửi trực tiếp thư của mình đến các đồng chí Trung ương uỷ viên và một số đồng chí bí thư tỉnh uỷ dự Hội nghị Trung ương 11”. Bộ Chính trị yêu cầu ai đã nhận bức thư của ông Võ Văn Kiệt thì gửi lại Văn phòng. Uỷ viên Thường trực Bộ Chính trị Phan Diễn nói trước Hội nghị Trung ương 11 rằng đó là những tài liệu “không phát hành theo con đường của Đảng” và giải thích với ông Kiệt, sở dĩ cho “thu hồi” bức thư ấy là vì “Nhận thấy một số nội dung trong thư góp ý của anh nếu để lọt ra ngoài thì sẽ không có lợi, dễ bị lợi dụng, xuyên tạc”10. Trung tuần tháng 4-2006, khi các đại biểu dự Đại hội X bắt đầu được triệu tập về Thủ đô, ông Võ Văn Kiệt lại bay ra Hà Nội. Từ khu biệt thự Hồ Tây, ông Võ Văn Kiệt nhờ Giáo sư Tương Lai đến gặp Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, chuyển lời “Nếu như trong đại hội có người đề nghị giữ anh lại, có người đề cử anh làm Tổng bí thư thì anh đừng từ chối”. Tiếp đó, Giáo sư Tương Lai lại được cử đi “ăn tối” với ông Nguyễn Thiện Nhân, phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Cuối bữa cơm, Giáo sư Tương Lai nói riêng với ông Nhân “Anh Sáu Dân nhờ tôi nói với anh, làm sao để Đoàn Thành phố đề xuất anh Nguyễn Văn An ở lại”. Ông Nguyễn Thiện Nhân nhận lời. Ông Nguyễn Văn An đã từng là trưởng Ban Tổ chức Trung ương từ khoá VIII, biết rõ mọi việc đã được hội nghị trung ương an bài. Ông An nói với Giáo sư Tương Lai “Anh về nói với anh Sáu Dân, tôi hết sức cám ơn anh ấy đã tin tôi. Nhưng, đây là quyết định của tổ chức, tôi không làm trái được”. Ông Nguyễn Văn An thừa nhận “Lúc ấy tôi cũng suy nghĩ, cũng có khá đông anh em muốn tôi ở lại, nhưng số đông ấy chưa đủ đông”. Năm 1954, khi Chính phủ Hồ Chí Minh tiếp quản Thủ đô, ông Nguyễn Văn An đang là công nhân nhà máy Điện Hà Nội. Năm 1961, ông được đưa đi học văn hoá hai năm rồi sang Liên Xô, học điện ở trường Đại học Bách khoa Donetsk. Ông An thừa nhận, người đồng hương Trần Xuân Bách đã đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp chính trị của mình Năm 1972, tỉnh uỷ viên dự khuyết, phó giám đốc công ty kỹ thuật Điện Nam Hà; năm 1980, chủ tịch tỉnh mới Hà Nam Ninh11; năm 1982, uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Năm 1996, ông An năm mươi chín tuổi nói với lãnh đạo Ban Tổ chức là ông xin nghỉ. Theo ông An “Lãnh đạo Ban biểu quyết nhất trí 100% nhưng Ban Chấp hành Trung ương vẫn giữ tôi ở lại”. Ở Đại hội VIII, ông được bầu vào Bộ Chính trị, trong khi người dự kiến làm trưởng ban là ông Lê Huy Ngọ thì không, ông An trở thành trưởng Ban Tổ chức. Cuối năm 1997, trước khi rời khỏi chức vụ Tổng bí thư, ông Đỗ Mười đưa một danh sách bốn người ra thăm dò nhân sự thay thế mình, ông Lê Khả Phiêu được cao phiếu nhất, Nông Đức Mạnh chỉ được một phiếu, người về nhì là ông Nguyễn Văn An, dù ông An không nằm trong bốn người được ông Đỗ Mười đề cử. Sự xuất hiện quá sớm đã khiến cho ông An thêm thận trọng. Ông Nguyễn Văn An thường tìm cớ vắng mặt trong các phiên họp mà Bộ Chính trị bàn nhân sự có liên quan đến mình trước Đại hội IX thì lấy cớ về nuôi mẹ bệnh12; trước Đại hội X, ông công du các nước châu Mỹ Latin. Có mặt trong những phiên họp như vậy, nếu được giới thiệu mà từ chối thì không thật lòng, không từ chối thì dễ trở thành mục tiêu của các đợt tấn công chính trị. Ông An biết, sau một nhiệm kỳ trên cương vị trưởng Ban Tổ chức Trung ương, ơn huệ cũng lắm mà oán thán cũng nhiều13. Ông Nguyễn Văn An cho rằng “Ông Kiệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và nhận thức về tôi cũng chậm. Ông Kiệt là một người rất khéo dùng người cho những công trình lớn nhưng ông thường quan tâm đến chính sách, đường lối chứ ít quan tâm đến công tác cán bộ. Ông Kiệt không nâng đỡ những người thân quen, không co cụm trong lợi ích riêng. Có lúc tôi phải nói anh phải lo nhân sự, chứ chỉ chăm lo đường lối thì lấy ai làm”. Theo ông Nguyễn Văn An “Công tác nhân sự rất phức tạp, chuẩn bị sai thì hỏng, chuẩn bị đúng mà không đúng lúc cũng không thành. Đảng ta sai lầm về cán bộ rất nhiều. Ngay từ Đại hội VI, chọn ông Nguyễn Văn Linh đã không đúng. Ông ấy không phải là người đổi mới. Ông Linh chọn ông Đỗ Mười cũng không đúng. Ông Mười chọn Lê Khả Phiêu cũng không đúng. Đến khi chọn Nông Đức Mạnh thì sai”. Về sau, ông Nguyễn Văn An nhận ra vấn đề của Đảng Cộng sản Việt Nam là “lỗi hệ thống”. Nếu như năm 2001, ông không tán thành tranh cử trong Đảng14 thì năm 2010, ông công khai đề nghị trên báo Vietnamnet “Công nhận sở hữu tư nhân, bãi bỏ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; bãi bỏ chế độ đảng chủ’, áp dụng tam quyền phân lập; thực hiện dân chủ theo nguyên tắc phải có tranh cử, phải công khai minh bạch”. Nhưng, hệ thống chính trị mà ông đã cả đời phục vụ nhanh chóng dập tắt sự lan toả của đề nghị này15. Đại hội XI vẫn diễn ra theo đúng truyền thống bộ máy cũ sản sinh ra chính nó. Sở hữu toàn dân Chiều 18-1-2011, với số phiếu biểu quyết 61,70%, Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn định nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” thay vì theo định nghĩa cũ trong “Cương lĩnh 1991” là phải “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu”. Tuy nhiên, người thuộc về thiểu số bảo vệ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, ông Nguyễn Phú Trọng, đã trở thành Tổng bí thư chứ không phải là một nhân vật thuộc số đông ủng hộ “quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp”16. Công hữu là đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội, nó được xác lập trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản viết năm 1848. Mở đầu Tuyên ngôn, các giả của nó, Friedrich Engels và Karl Marx, tuyên bố rằng “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu”. “mươi phương pháp nhằm xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản” mà Marx và Engels kêu gọi gồm “Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước; áp dụng thuế luỹ tiến cao; xoá bỏ quyền thừa kế; tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn; tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn; tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước; tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất…”. Trong “tám đặc trưng”17 của chủ nghĩa xã hội mà cương lĩnh của Đảng xác định cho đến trước Đại hội XI, chỉ có “đặc trưng thứ ba”, về mặt lý thuyết, là còn mang dấu hiệu của chủ nghĩa xã hội kinh điển. Nhưng hai uỷ viên Trung ương sắp sửa về hưu, Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Võ Hồng Phúc và cựu Thống đốc Ngân hàng Lê Đức Thuý, chiều 13-1-2011, khi yêu cầu sửa đổi “đặc trưng” này đã không thể nói thẳng ra rằng, các đặc trưng mà văn kiện Đảng đề cập không hề mang dáng dấp của cái gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa mà Marx và Engels đã nói. Cuộc biểu quyết bằng phiếu kín hôm 18- 1-2011 chỉ có ý nghĩa như một hành động cách mạng khi các nhà lãnh đạo mới khai thác “chữ nghĩa” trong văn kiện Đảng. Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất18. Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hoá đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980. Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc19 nói “Trong Dự thảo Hiến pháp 1980 do Chủ tịch Trường Chinh trình Bộ Chính trị vẫn duy trì đa hình thức sở hữu đối với đất đai, trên cơ sở khuyến khích năm thành phần kinh tế. Nhưng Hiến pháp 1980 là Hiến pháp Lê Duẩn. Tổng bí thư Lê Duẩn quan niệm Đối với những nước lạc hậu phải dùng quan hệ sản xuất tiên tiến để kéo lực lượng sản xuất lên. Công hữu khi ấy được coi là quan hệ sản xuất tiên tiến. Đặc biệt, năm 1980 Lê Duẩn lại đang say sưa với làm chủ tập thể”. Ông Tôn Gia Huyên, năm 1980 là Vụ phó Vụ Quản lý đất đai, bổ sung “Ý kiến của Bộ Nông nghiệp và của Vụ chúng tôi là vẫn giữ ba hình thức sở hữu sở hữu toàn dân nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Biên bản ghi rõ thế. Nhưng về sau tôi biết, đêm trước khi bỏ phiếu, Bộ Chính trị quyết định chỉ giữ một hình thức sở hữu toàn dân”. Từ ngày 4 đến ngày 10-9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng “họp hội nghị toàn thể để xem xét bản Dự thảo Hiến pháp”. Trong phiên bế mạc, Tổng bí thư Lê Duẩn có bài nói chuyện với tựa đề “Hiến pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”. Sau khi điểm lại những “công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam”, phân tích mối quan hệ giữa “tư tưởng làm chủ tập thể” với chủ nghĩa Marx – Lenin, Tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố “Làm chủ tập thể là tinh thần cơ bản, là nội dung nhất quán của Hiến pháp mới… Nhân đây, tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân”20. Sau chiến thắng 1975, theo ông Nguyễn Đình Lộc “Ông Lê Duẩn coi mình là trung tâm của lý luận và những người còn lại thì không ai phản đối”. Tuy Hiến pháp 1980 quốc hữu hoá đất đai nhưng theo ông Tôn Gia Huyên “Ông Trường Chinh chủ trương giữ nguyên hiện trạng chứ không tịch thu ruộng đất như điều mà Lenin đã làm với kulak ở Nga sau năm 1917. Ông yêu cầu ghi vào Điều 20 của Hiến pháp 1980 Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật”. Người có vai trò quyết định trong tiến trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là Tổng bí thư Đỗ Mười thì theo Trưởng Ban Biên tập Hiến pháp 1992 Nguyễn Đình Lộc, “bị hạn chế trong tư tưởng của Lê Duẩn”. Theo ông Lộc “Tổng bí thư Lê Duẩn coi quốc hữu hoá đất đai là một tiến bộ của chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội là rất thiêng liêng. Khi chuẩn bị bài phát biểu về Hiến pháp cho Tổng bí thư Đỗ Mười, tôi có trình bày, nhưng ông Đỗ Mười nghiêng về sở hữu toàn dân. Ông lập luận, trước sau gì cũng tới đó nên cứ để vậy. Khi ấy, không ai có đủ dũng cảm đứng lên đòi bỏ sở hữu toàn dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm”. Theo ông Phan Văn Khải “Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tôi muốn sửa Hiến pháp theo hướng trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân nhưng không thành công, chúng tôi đành phải tìm ra khái niệm 5 quyền cho người sử dụng đất”. “5 quyền” mà ông Phan Văn Khải đề cập trên đây được ghi trong Luật Đất đai 1993 là một bước tiến so với những gì xác lập trong Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội mà Đại hội VII thông qua hồi tháng 6-199121. Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, trưởng Ban Soạn thảo Luật Đất đai 1993, nói “Tôi biết trong bụng một số ông muốn cho người dân quyền tư hữu đất đai, nhưng đã vào Bộ Chính trị là không còn ông nào dám đưa ra chính kiến. Ông Kiệt, ông Khải muốn cho tư nhân sở hữu đất đai mà không dám nói. Tôi cũng muốn cho tư nhân sở hữu đất đai và tuy chỉ là Trung ương uỷ viên, tôi cũng không dám nói”. Quan hệ ruộng đất thực hiện theo “các chính sách của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã làm kiệt quệ đời sống nông dân. Chỉ thị 100, ban hành năm 1981, từng được coi là một bước tiến trong nông nghiệp. Nhưng, theo chính sách này ruộng đất vẫn nằm trong tay hợp tác xã, trên vai người nông dân vẫn phải mang gánh nặng của bộ máy quan liêu. Tham ô, lãng phí trong các hợp tác xã đã lấy hết phần lớn sản phẩm của người nông dân22. Năm 1987, phần vì thiên tai, phần chủ yếu do chính sách đất đai, sản lượng lương thực giảm gần một triệu tấn, từ tháng 3-1987 nhiều địa phương bắt đầu bị đói. Đầu năm 1988, nạn đói lan ra ở hai mươi mốt tỉnh, thành miền Bắc với hơn 9,3 triệu người thiếu ăn, trong đó có 3,6 triệu người “đứt bữa và đói gay gắt”. Quốc hội nhận được báo cáo “Có nơi, xuất hiện người chết đói”. Theo nhà báo Thái Duy “Gần như cả nước thiếu ăn, một vài tỉnh mang dáng dấp của nạn đói năm Ất Dậu 1945. Người ăn xin đổ về Hà Nội đông khác thường, không riêng lẻ như trước mà đi từng gia đình. Ở quê không có gì ăn cả”23. Cuộc sống và phản ứng của người dân đã làm thay đổi tư duy của một số nhà lãnh đạo và buộc Đảng phải thay đổi một phần chính sách trong đó có chính sách khoán trong nông nghiệp mà về sau gọi là “Khoán 10” hoặc “Nghị quyết 10”24. Sau khi thừa nhận những chính sách trước đó, kể cả Chỉ thị 100, đã không khắc phục được tình trạng “tự cấp, tự túc, chia cắt và độc canh”, Nghị quyết 10 đã cho các hộ cá thể, tư nhân nhận “khoán đất ruộng, đất rừng và mặt nước để họ tổ chức sản xuất, kinh doanh”25, đặc biệt, nông dân còn “được giao quyền thừa kế” đất khoán này cho con cái, và trong trường hợp chuyển sang làm nghề khác được phép “chuyển nhượng quyền tiếp tục sử dụng cho chủ khác”. Cùng với quyết định bãi bỏ chính sách “ngăn sông, cấm chợ”26, chỉ đơn giản là giao ruộng đất cho dân, Nghị quyết 10 đã tạo ra một cuộc cách mạng thật sự trong sản xuất nông nghiệp. Tháng 3-1988, nạn đói vẫn đang hoành hành ở hai mươi mốt tỉnh thành. Tháng 7-1989, đã có tấn gạo được đưa lên tàu xuất khẩu. Cả năm 1989, Việt Nam xuất khẩu gạo lên tới 1,4 triệu tấn. Người nông dân ngay sau đó đã “suy nghĩ trên luống cày” của mình và họ đã “đồng khởi” lần thứ hai để đòi lại đất đai trước đó bị ép đưa vào tập đoàn, hợp tác. Ông Nguyễn Văn Linh, cho dù gặp không ít khó khăn chính trị, đã chấp nhận để nông dân mang ruộng đất của mình ra khỏi các tập đoàn, hợp tác xã27. Bằng quyết định này, ông Nguyễn Văn Linh đã thêm một lần ra tay “cởi trói”, lần này là đối với nông dân. Thế nhưng, những lợi ích to lớn mà quốc gia được hưởng nhờ ruộng đất được giao cho nông dân này đã không làm lung lay ý chí “sở hữu toàn dân” của các nhà lãnh đạo, kể cả Nguyễn Văn Linh. Trong Cương lĩnh mà Đại hội Đảng lần thứ VII 6-1991 thông qua soạn thảo khi Nguyễn Văn Linh còn là Tổng bí thư vẫn coi đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Trước khi Dự thảo Luật Đất đai 1993 được đưa ra thảo luận, ngày 14-4-1993, ông Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư ký Chỉ thị số 18, yêu cầu “lãnh đạo lấy ý kiến nhân dân đối với dự án Luật đất đai”. Theo đó, phải “làm cho nhân dân, cán bộ, đảng viên nắm được những quan điểm cơ bản toàn bộ đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân”. Đào Duy Tùng yêu cầu “Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban Cán sự đảng Chính phủ, đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, các đoàn thể nhân dân khác” phải “theo dõi sát sao quá trình thảo luận trong phạm vi cả nước, kịp thời giải thích, uốn nắn những tư tưởng và việc làm lệch lạc”28. Cũng như thời làm Hiến pháp 1980, một chính sách liên quan đến toàn dân mà một tập thể nhỏ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quyết định trước khi nhân dân được biết. Luật Đất đai 1993 tuy trao cho người sử dụng đất 5 quyền sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê đã có một bước lùi khi đặt ra mức hạn điền và, thay vì “giao đất ổn định lâu dài” theo Điều 18 của Hiến pháp, Luật đã quy định thời hạn đối với người sử dụng đất. Theo ông Tôn Gia Huyên, hạn điền và thời hạn giao đất là đặc trưng, là ranh giới cuối cùng để phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu toàn dân. Nhưng, các chuyên gia luật cho rằng, đây là trao quyền sở hữu một cách trá hình. Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc thừa nhận “Vì không muốn xáo trộn chính trị mà phải vi phạm tính pháp lý”. Hiến pháp 1992 chỉ giao cho người sử dụng đất “3 quyền”. Thế nhưng, theo ông Tôn Gia Huyên “Ông Đỗ Mười vẫn cho là mở quá đà. Có những vấn đề Quốc hội định biểu quyết, thậm chí biểu quyết rồi, ông Mười cũng chặn lại. Cứ giờ giải lao là ông Đỗ Mười lại chạy vào phòng Chủ tịch Đoàn có ý kiến”. Điển hình là việc xét lại kết quả cuộc biểu quyết ngày 6-4-1992. Năm giờ chiều ngày 6-4-1992, khi Ban Soạn thảo đưa “quyền thừa kế” ra “xin ý kiến Quốc hội”, có 318/422 đại biểu biểu quyết đồng ý. Nhưng ngay sau đó, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo cho rằng, đây là vấn đề quan trọng, cần phải thận trọng, xin Quốc hội để lại chỉnh lý. Đại biểu Trần Thị Sửu, Long An, nói “Tôi có cảm giác ai đứng sau lưng giật dây Quốc hội”. Câu hỏi của bà Sửu đã làm cho ông Lê Quang Đạo, lần đầu tiên, mất bình tĩnh. Ông gần như đập mạnh tay xuống bàn “Ai! Ai đứng sau lưng giật dây Quốc hội! Đây là một vấn đề phức tạp phải cân nhắc chứ không phải ai cả!”29. Tối 6-4-1992, Đảng đoàn Quốc hội nhóm họp quyết định sẽ đưa “quyền thừa kế của người sử dụng đất” ra bàn lại. Nhiều đại biểu cho rằng “biểu quyết lại là vô nguyên tắc”30. Tất nhiên, ông Lê Quang Đạo đã phát biểu với tư cách một uỷ viên Trung ương. Cũng như Chủ tịch, đa số đại biểu Quốc hội đều là đảng viên. Chiều 11-4-1992, khi biểu quyết lại, 302/411 đại biểu đã tán thành không ghi quyền thừa kế quyền sử dụng đất vào Điều 18 của Hiến pháp. Sự thoả hiệp giữa những người muốn coi đất đai là hàng hoá và những người muốn coi đất đai là tư liệu sản xuất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội đã làm biến dạng các chính sách đất đai thời kỳ hậu Hiến pháp. Trong tuần lễ cuối cùng của tháng 6-1993, qua bốn buổi thảo luận trên Hội trường, trong khi các đại biểu miền Nam đề nghị “giao đất lâu dài” như Hiến pháp, các đại biểu miền Bắc và miền Trung lại tán thành giao đất có thời hạn; thậm chí có đại biểu còn đòi rút ngắn thời hạn giao đất xuống còn từ 10-15 năm. Trong tính toán của nhiều người, giao đất có thời hạn nghĩa là sau đó Nhà nước có thể lấy đất lại để giao cho người khác31. Luật Đất đai 1993 vì thế không gây phấn khởi như người dân chờ đợi. Đất đai của cha ông để lại, của chính họ đổ mồ hôi nước mắt khai khẩn hoặc bỏ tiền ra mua, sau khi có Luật còn phải ngồi chờ được Nhà nước làm thủ tục giao đất của mình cho mình. Trừ các giao dịch về đất đi liền với nhà ở, việc chuyển nhượng đất đai, đặc biệt là chuyển nhượng đất đi kèm với chuyển quyền sử dụng thường bị hành chính hoá bằng quyết định Nhà nước thu hồi đất của người bán, giao đất ấy cho người mua rồi người mua còn phải đóng 100% tiền sử dụng đất. Người dân cho rằng họ đã phải trả tiền hai lần để có được tờ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất32. Luật đất đai 1993 còn bỏ ngõ 18 vấn đề, trong đó có ba vấn đề Chính phủ phải trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước; Quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài thuê đất và Thuế chuyển quyền sử dụng đất. Chính phủ khi điều hành các giao dịch về đất đai đã dựa trên quan điểm thị trường của mình, coi đất đai là hàng hoá trong khi, quyền sở hữu của người dân về đất đai vẫn là “trá hình”. Năm quyền của người sử dụng đất đã được ghi vào Bộ Luật Dân sự 1985 của Việt Nam nhưng trên thực tế, các quyền dân sự này vẫn có thể bị vô hiệu bởi các quyền hành chánh33. Chính phủ đầu thập niên 1990 cũng đánh giá tiềm lực nguồn thu từ đất đai rất lớn nên đã định ra một mức thuế quá cao, khiến cho thị trường địa ốc đóng băng ngay chỉ sau vài năm nhen nhúm34. Thị trường địa ốc còn phải chịu rất nhiều tác động sau khi Nghị định 18 được ban hành35. Sau khi Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng 1-1994 đưa ra “bốn nguy cơ”, các chính sách trong đó có chính sách đất đai có khuynh hướng thắt chặt hơn và “sở hữu toàn dân” lại được đặt lên trên những lợi ích mà đất đai mang lại36. Nghị định 18 không những trở thành một trong những tác nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của các doanh nghiệp đầu tư quá rủi ro vào đất đai như Minh Phụng, EPCO và Tamexco37 mà còn gây thất thu lớn cho ngân sách38. Ngày 2-7-1998, trong một Hội nghị tại Thành phố Hồ Chí Minh có cả Tổng bí thư Lê Khả Phiêu tham dự, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận xét “Luật nói đất đai là tài sản vô giá. Nhưng quy định một hồi đất không còn có giá. Luật không công nhận thì thị trường đất đai sẽ hoạt động ngầm thôi. Vấn đề là phải biến cái thị trường ngầm đó trở thành công khai để Nhà nước quản lý”. Nhưng, ngày 2-12-1998, khi thông qua Luật “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai” tinh thần “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” vẫn lấn át quan điểm thị trường mà Thủ tướng đã trình bày trước đó. Chính sách hạn điền được ban hành dựa trên tính toán bình quân ruộng đất của từng vùng của thập niên 1990, khi hơn 80% dân số vẫn sống trong khu vực nông thôn. Các nhà lập pháp đã không tính đến khả năng thị trường sẽ điều chỉnh quan hệ này, nhất là khi đô thị và các ngành kinh tế khác thu hút thêm nhiều lao động. Theo Trưởng Ban Soạn thảo Luật Đất đai 1993, ông Nguyễn Công Tạn, “hạn điền và thời hạn giao đất là đặc trưng, là ranh giới cuối cùng để phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu toàn dân”. Chính sách hạn điền đã cản trở chính chủ trương “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Không cho tích tụ ruộng đất thì không thể hiện đại hoá trong sản xuất nông nghiệp. Ruộng đất manh mún khiến cho nông dân, đặc biệt là nông dân miền Bắc tiếp tục cuốc bẫm cày sâu, ruộng ít mà không ít nơi, người nông dân lại bỏ ruộng. Tiến trình công nghiệp hoá vì thế sẽ được thay thế bằng một con đường gây biến động xã hội nông thôn hơn Nhà nước thu hồi đất của nông dân giao cho các nhà doanh nghiệp phá ruộng làm khu công nghiệp Kể từ năm 1993, Luật Đất đai đã được sửa đổi 5 lần. Luật năm 1998 đã sửa đổi tương đối căn bản Pháp lệnh 14-10 và Nghị định 1839 nhưng phải đến Luật Đất đai năm 2003, thông qua ngày 26-11-2003, Nhà nước mới công nhận đủ các quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp40. Điểm tiến bộ nhất của Luật Đất đai năm 2003 là bãi bỏ các điều kiện bắt buộc khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp áp dụng với hộ gia đình và cá nhân41. Làm luật cũng là chính quyền, giải thích luật cũng là chính quyền. Khi đất đai càng mang lại nhiều đặc lợi thì “sở hữu toàn dân” lại càng trở thành căn cứ để các chính sách giao cho người ban hành nó có thêm nhiều đặc quyền. Chỉ riêng các điều khoản thu hồi, nếu như từng được quy định khá chặt chẽ trong Luật 1993, đã trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn trong Luật 2003. Điều 20, Luật Đất đai 1993 quy định “Khi hết thời hạn giao đất, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì được nhà nước giao đất đó để tiếp tục sử dụng”. Luật Đất đai được sửa đổi vào ngày 2-12-1998 vẫn giữ nguyên quy định này ở Điều 20. Đầu tháng 11-1998 khi Quốc hội bàn về Luật Đất đai sửa đổi, không khí thảo luận cho thấy một số đại biểu Quốc hội hiểu về thời hạn theo kiểu, giao đất 20 năm là để 20 năm sau thu hồi, chia lại đất đai một lần nữa. Trưởng Ban Soạn thảo Luật Đất đai 1998, Tổng Cục trưởng Địa chính Bùi Xuân Sơn giải thích “Luật Đất đai không đặt ra vấn đề thu hồi đất chia lại. Luật chỉ qui định sau 20 năm người sử dụng đất được giao tiếp tục sử dụng”42. Nhưng, ý chí của nhà làm luật đã không được minh định thành giấy trắng mực đen. Năm 2003, khi Quốc hội viết lại Luật Đất đai, tại Điều 38, mặc dù Khoản 7 có ghi Nhà nước chỉ thu hồi đất khi “cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế”; nhưng, tại Khoản 10 lại mở ra một rủi ro Nhà nước thu hồi những phần đất không được gia hạn khi hết thời hạn. Hai mươi năm, rất tiếc, vẫn không phải là một thời gian đủ dài để chính quyền thay đổi nhận thức của mình về vấn đề sở hữu. Luật Đất đai nói người sử dụng đất được tiếp tục giao đất khi hết thời hạn nhưng không khẳng định đó là một điều kiện đương nhiên. Tài sản đất đai của người dân bị lệ thuộc rất nhiều vào chính quyền huyện, cấp được Luật giao cho quyền giao và thu hồi đất của cá nhân và hộ gia đình. Điều 27, Luật Đất đai 1993, quy định “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Điều Luật tiếp theo còn đưa ra những điều kiện ràng buộc nhằm tránh sự lạm dụng của Chính quyền. Luật sửa đổi 1998 gần như giữ nguyên tinh thần này. Nhưng, đến Luật Đất đai 2003, Chính quyền có thêm quyền thu hồi đất để ử dụng cho mục đích “phát triển kinh tế”. Thời Thủ tướng Phan Văn Khải, “mục đích phát triển kinh tế” được minh định trong ba trường hợp xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Các nghị định ban hành trong thời gian này tuy có đưa danh mục các trường hợp bị thu hồi đất tăng lên43 nhưng phải tới năm 2007, khi các nhà kinh doanh địa ốc thực sự trở thành một thế lực, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng mới sửa đổi chính sách làm cho đất đai của dân bị thu hồi dễ dãi44. Người dân nhận đền bù theo chính sách “thu hồi” chỉ được trả một khoản tiền tượng trưng, rồi chứng kiến các nhà doanh nghiệp được chính quyền giao đất để “phát triển kinh tế” bán lại đất ấy với giá cao hơn hàng chục, có khi hàng trăm lần. Cho dù “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, người dân chỉ có các quyền của người sử dụng. Nhưng, sở dĩ ai cũng gắn bó với nó là bởi Đất ấy không phải được giao không từ quỹ đất công như những quan chức có đặc quyền, đặc lợi; Đất ấy họ đã phải mua bằng tiền; Đất ấy họ phải tạo lập bằng nước mắt, mồ hôi; Đất ấy là của ông cha để lại. Đó là lý do mà gia đình anh Đoàn Văn Vươn, hôm 5-1-2012, và 160 hộ dân Văn Giang, hôm 24-4-2012, phải chọn hình thức kháng cự bằng cách hết sức rủi ro trước lệnh cưỡng chế thu hồi đất45. Theo ông Nguyễn Đình Lộc “Ban Soạn thảo Hiến pháp 1992 nhận thấy Hiến pháp 1980 đã quốc hữu hoá đất đai một cách máy móc, nhưng vẫn phải để yên vì nếu gỡ ngay sẽ trở thành một vấn đề chính trị”. Hai mươi năm sau, Đại hội Đảng lần thứ XI đã cho các nhà lãnh đạo Việt Nam một lối thoát chính trị khi định nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội không còn coi “sở hữu công về tư liệu sản xuất là chủ yếu”. Thế nhưng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 tháng 5-2012 vẫn “máy móc” bảo vệ sở hữu toàn dân với đất đai. Khi hình thành chính sách đất đai, theo ông Tôn Gia Huyên “Trước sau, ông Võ Văn Kiệt chỉ hỏi tôi một câu Tại sao đất 5% giao cho nông dân tạo ra của cải nhiều hơn 95% ruộng đất trong hợp tác xã, tập đoàn mà không trả hết đất cho nông dân”. Sở hữu toàn dân đối với đất đai không phải là một kinh nghiệm quản lý của ông cha ta mà là một chính sách cop-py từ Liên Xô, một nhà nước đã bị nhân dân lật đổ. Hình thức sở hữu ấy chỉ được giữ để bảo vệ niềm tin của một thiểu số coi nó là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội thay vì căn cứ vào các phân tích dựa trên lợi ích của nhân dân và của quốc gia. “Tập thể hoá” đã được cưỡng bức ở cả miền Bắc và miền Nam để thực hiện mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, tháng 12-1976, đưa ra “Năm 1980 đạt ít nhất 21 triệu tấn lương thực quy thóc”. Để rồi, kết quả là Năm 1976, sản lượng lúa cả nước đang là 11,8 triệu tấn; Năm 1980 chỉ còn 11,6 triệu tấn. Trong các năm từ 1981-1987, nhờ khoán ruộng cho nông dân theo Chỉ thị 100, sản lượng lương thực mới tăng được lên 17 triệu tấn. Trong khi chỉ trong vòng tám tháng sau khi Bộ Chính trị đồng ý giao ruộng cho nông dân với quyền chuyển nhượng và thừa kế thì người dân đã làm ra một sản lượng lương thực tăng thêm 2 triệu tấn46. Chỉ cần có đất trong tay, chỉ sau hai năm, người nông dân đã đưa sản lượng lương thực đạt tới mức mà Đảng mất hàng thập niên để ước mơ. Sản lượng lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn trong năm 1989 và lên đến 21,46 triệu tấn trong năm 1990, đạt mức 24,5 triệu tấn trong năm 1993. Năm 1988 đang là một quốc gia đói kém, năm 1989, Việt Nam đã có hơn 1,4 triệu tấn gạo dư đem xuất khẩu. Vậy mà, để bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng vẫn không trả lại ruộng đất cho nông dân. Vẫn đặt cuộc sống của những người thực sự làm thay đổi hình ảnh quốc gia trong những rủi ro hạn điền, thời hạn sử dụng và bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bị thu hồi đất. Đổi mới đã giúp cho cuộc sống của người dân Việt Nam khá dần lên Tỷ lệ người nghèo giảm từ 51,8%, năm 1990, xuống còn 14,5%, năm 2008; Tỷ lệ người thiếu đói giảm từ 24,9%, năm 1993, xuống còn 6,9%, năm 200847. Đổi mới đã biến hàng triệu người vô sản trở thành doanh nhân. Ở tuổi 17, 18, cô học sinh Lý Mỹ đã để cho Đoàn Thanh niên cộng sản dắt tay cùng cán bộ cải tạo đi kê biên tài sản của chính cha mẹ mình tháng 3-197848. Đổi mới đã đưa Lý Mỹ trở lại truyền thống gia đình, trở thành một nhà tư sản. Nhưng Lý Mỹ đã phải bước qua biết bao đau thương. Cũng như Lý Mỹ, con đường trở lại làm doanh nhân của hàng triệu người dân Việt Nam cũng thấm đẫm biết bao máu và nước mắt49. Nhớ khi “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Nhớ khi trả lại ruộng đất và một số quyền căn bản cho dân thì đất nước hồi sinh, đời sống người dân bắt đầu cải thiện. Bản chất của đổi mới là từ chỗ Đảng và Nhà nước cấm đoán, tập trung tất mọi quyền hành, đến chỗ để cho dân quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”50. Không thể phủ nhận tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Khi ông đưa ra tuyên bố này loài người chưa có Internet, thế giới chưa có toàn cầu hoá, độc lập dân tộc đối với người dân ở nhiều quốc gia vẫn được coi là vô cùng thiêng liêng. Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng hình thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đình. Lúc ấy là Phó ban Tổ chức Trung ương Đảng. ↩Còn có lời đồn nói rằng ông là con của nhà cách mạng Phùng Chí Kiên. ↩Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 26-7-2007. ↩Năm 2007, số liệu được chính thức công bố là 38,7%. Năm 2008, Bộ Kế hoạch & Đầu tư cải chính bằng con số mới là 53,89%. Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 Từ bất ổn đến con đường tái cơ cấu của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì tăng trưởng tín dụng năm 2007 lên tới 53,89%. Các nghiên cứu của Ngân hàng Nhà nước đưa ra con số 51%. ↩Ngày 25-5-2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký nghị định 24, giành lấy quyền sản xuất vàng miếng cho nhà nước và buộc doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng phải có vốn trên 100 tỷ đồng. Quyết định này đã dẫn tới việc đóng cửa hàng ngàn cửa hàng kinh doanh vàng bạc và giúp cho SJC trở thành nhãn hiệu vàng độc quyền. Hai mươi ba năm trước đó, ngày 24-5-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký Quyết định 139, cho phép tư nhân mở tiệm vàng với điều kiện chỉ cần ký quỹ 5 lượng trước đó những người sở hữu từ 2 chỉ vàng trở lên bị coi là bất hợp pháp, chỉ sau hai tháng cả nước có tới 400 tiệm vàng. ↩Nguồn Tổng cục Thống kê. Mức tăng trưởng GDP của năm 2012 bị các nhà kinh tế nghi vấn vì năm 2009, để GDP tăng 5,89% mức tăng tín dụng phải đạt 39,6%, trong khi năm 2012, tín dụng chỉ tăng 7%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội chỉ đạt 33,5% GDP, tức là thấp nhất trong vòng 12 năm qua mà GDP vẫn tăng được 5,03%. ↩Thời gian đầu sau Đại hội VIII, tuy là chủ tịch Quốc hội nhưng Nông Đức Mạnh không được đưa vào Thường vụ Bộ chính trị. Trước khi hết nhiệm kỳ, ông Nông Đức Mạnh làm hai việc tai tiếng đưa con trai là Nông Quốc Tuấn, một người xuất thân là “lao động xuất khẩu”, năng lực giới hạn, lên làm bí thư Bắc Giang để được cơ cấu vào Trung ương. ↩Tướng Giáp phủ nhận giai thoại này, việc ông Mạnh đi Liên Xô học như đã nói ở trên là do chính sách đối với cán bộ người dân tộc. ↩Theo thư đề ngày 2-8-1994 của Tổng Biên tập Tuổi Trẻ gửi Ban Tuyên huấn Thành uỷ thì ông Nông Đức Mạnh đã yêu cầu báo Tuổi Trẻ phải kỷ luật phóng viên hỏi câu này, ông Mạnh nhầm Huỳnh Ngọc Chênh với phóng viên Tâm Chánh của Tuổi Trẻ. ↩Theo thư Phan Diễn gửi Võ Văn Kiệt ngày 19-1-2005. ↩Sáp nhập từ Hà Nam – Nam Định – Ninh Bình. ↩Trả lời phỏng vấn Huy Đức, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 27, ngày 28-06-2001 “TBKTSG Có ít nhất hai lần, khi lãnh đạo Đảng bàn nhân sự, nghe nói, đã đề cập đến ông như là một trong những nhân vật trung tâm, nhưng, cứ bàn đến ông thì ông lại vắng vì lý do đi thăm mẹ? Nguyễn Văn An Cười to Cái này là đi sâu vào đời tư đây. Làm cán bộ thì bao giờ cũng phải đặt lợi ích quốc gia lên trên. Nhưng cán bộ nào thì cũng là con người thôi, mà con người thì ngoài nghĩa vụ với đất nước còn phải có nghĩa vụ với những người ruột thịt, với mẹ. Mẹ tôi có ba người con gái, mình tôi là con trai, con trai út. Khi tôi ở Hà nội, tôi mời mẹ lên, mẹ không lên. Chị gái kế tôi bị đau chân không đi lấy chồng, mẹ thương chị nên ở lại Nam Định. Lúc ấy, anh Huỳnh Công Thơ, người giới thiệu tôi vào Đảng, đọc lý lịch tôi, thấy vậy nói “An ơi, mày về Nam Định chăm mẹ đi, không sau này ân hận đấy”. Tôi nghe anh ấy, mặc dù bạn bè lúc ấy ai cũng khuyên nên ở Hà Nội. Sau này, trên lại điều tôi ra Hà nội. TBKTSG Ông vẫn chưa nói về cuộc họp liên quan đến cương vị của ông mà ông xin nghỉ họp để về thăm mẹ? Nguyễn Văn An Hôm ấy mẹ tôi bị bệnh. Cụ có người em họ làm y tá trong quân đội, mọi lần mẹ bệnh, ông ấy vẫn chữa cho, rất nhanh. Lần này, cụ không cho tiêm, người nhà mới gọi tôi về. Tôi về thì cụ đã quá sức, một tuần sau cụ đi. Mẹ tôi mất năm 97 tuổi, tôi cứ ân hận, nếu tôi có điều kiện chăm sóc, cụ có thể sống hơn trăm tuổi. Tôi nghĩ, với một cán bộ cũng như với một người bình thường, nghĩa vụ với bố mẹ, anh em rất quan trọng. Anh hiếu thì sẽ trung, anh trung thì sẽ hiếu”. ↩Ngày 27-6-2001, khi Quốc hội bỏ phiếu bầu Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Văn An chỉ nhận được 60,02% số phiếu. ↩Chủ tịch Nguyễn Văn An trả lời phỏng vấn Huy Đức, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn 28-6-2001 “TBKTSG Thưa ông, ở Đại hội 9 vừa qua, danh sách bầu cử Ban chấp hành Trung ương đã nhiều hơn số cần bầu khá nhiều. Đặc biệt, danh sách bầu Bộ chính trị có tới 27 người để chỉ bầu lấy 15. Điều đó là cần để giúp cho các đại biểu có sự lựa chọn dân chủ. Tuy nhiên, ở đây lại xuất hiện một vấn đề khác, những người bỏ phiếu có thực sự biết rõ người họ bầu là ai không? Nguyễn Văn An Để phát huy dân chủ trong công tác cán bộ không phải đơn giản. Muốn có dân chủ, theo tôi, phải có thông tin. Đại hội lần này, thông tin có khá hơn phiếu trong Trung ương thế nào; ý kiến nơi cư trú thế nào, ở cơ quan thế nào; kết quả kiểm điểmTrung ương 6, lần 2 thế nào… đều được gửi đến đại biểu. Vấn đề là thông tin ấy phải chính xác, ví dụ thông tin ở nơi cư trú. TBKTSG Nơi cư trú thì làm sao nhận xét chính xác về một cán bộ ở cấp Trung ương thưa ông? Nguyễn Văn An Đúng là có những người có vấn đề mà nơi cư trú vẫn đánh giá tốt, có người có vấn đề ở mức độ, nơi cư trú nhận xét quá gay gắt. Khi ấy phải bổ khuyết bằng kết luận của Uỷ ban kiểm tra Trung ương của Bộ Chính trị. Nhưng đáng tiếc, có đại biểu nói là họ không đọc hoặc đọc không hết những tài liệu ấy. Không có gì tuyệt đối hết, muốn phát huy dân chủ thì thông tin là hết sức quan trọng. Ngay Quốc hội họp đây, thông tin đến đây như thế nào, khả năng tiếp nhận thế nào cũng là một vấn đề. Để thực hiện dân chủ không phải đơn giản. TBKTSG Thưa ông, tại sao không phát huy dân chủ bằng cách cho tranh cử? Ta hay có ấn tượng với tranh cử nhưng tranh cử thực chất chỉ là một hình thức cung cấp thông tin cho người bỏ phiếu? Nguyễn Văn An Đây là vấn đề lớn, vấn đề khó. Tranh cử có cái hay nhưng không phải không có cái dở. Để có một trình độ tranh cử văn minh không đơn giản, tranh cử không khéo sẽ thành tranh giành, cục bộ. Hiện giờ trong Đảng mình chỉ bàn bạc dân chủ rồi phân công. Đảng phải làm sao đảm bảo có dân chủ mà trong Đảng vẫn giữ được sự thống nhất. Vấn đề như tôi nói ở trên là “ý Đảng lòng dân” phải là một. Quốc hội là cơ quan đại biểu của nhân dân cho nên Đảng rất cần phải lắng nghe Quốc hội. Trước đây, có một số trường hợp chưa nghe hết ý kiến Quốc hội… TBKTSG Nếu Đảng cử hai ứng cử viên cho mỗi chức danh thì thưa ông, khi bầu, Quốc hội có điều kiện lựa chọn tốt hơn chứ? Nguyễn Văn An Chúng tôi cũng đã từng bàn. Nhưng đây là vấn đề rất nhạy cảm. Phải hết sức cân nhắc, phải lường trước hậu quả của nó. Thường thì vấn đề nhân sự, trong Đảng đã phải cân nhắc rất kỹ, bàn rất kỹ trước khi quyết định”. ↩Bài báo được đưa tờ Vietnamnet đưa lên thuc-cam-quyen-của-dang, nhưng, chỉ sau bốn mươi tám giờ, tổng biên tập của tờ Vietnamnet nhận được lệnh trực tiếp từ Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông, buộc gỡ bỏ. ↩Ông Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14-4-1944 ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội – cha mẹ là nông dân – ông thuộc thế hệ đầu tiên “lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”. Ông Trọng được mô tả là mê văn học dân gian từ nhỏ. Năm 1963, ông vào Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và như nhiều học sinh, nghiên cứu sinh miền Bắc thời đó, thành công của Nguyễn Phú Trọng gắn liền với việc ngợi ca thơ Tố Hữu. Khoá luận tốt nghiệp đại học của ông là “Thơ ca dân gian với nhà thơ Tố Hữu” được nói là đạt điểm tối ưu duy nhất của Khoá. Điều này đã giúp ông được kết nạp Đảng khi sắp sửa ra trường. Tốt nghiệp, ông được điều về Tạp chí Học tập tiền thân của tạp chí Cộng Sản. Bài báo đầu tiên mà ông viết khi trở thành phóng viên của tờ tạp chí khô khan này được đăng trên một tờ báo bạn, ca ngợi thơ ca của Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Tuyên huấn, bài viết có tên “Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu”tạp chí Văn Hoá 11-1968. Năm 1973, ông Trọng được đưa đi làm nghiên cứu sinh kinh tế chính trị tại Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc, “tập trung nghiên cứu trực tiếp các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin. Năm 1981, ông được đưa đến Liên Xô và trong vòng hai năm, ông vừa học tiếng Nga vừa lấy bằng phó tiến sỹ. Tháng 8-1983, ông Nguyễn Phú Trọng về nước làm phó Ban Xây dựng Đảng của Tạp chí Cộng sản, một chức vụ có “hàm” vụ phó, tháng 8-1991, ông Nguyễn Phú Trong đã được đưa lên chức tổng biên tập với hàm Bộ trưởng; Tháng 1-1994, tại hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng, ông được đưa vào Ban Chấp hành Trung ương cùng với mười chín người khác. Tháng 12-1997, sau hơn một năm được “luân chuyển” xuống Hà Nội làm phó bí thư Thành uỷ, ông Trọng lại được bổ sung vào Bộ Chính trị; Tháng 1-2000, làm bí thư Thành uỷ Hà Nội kiêm nhiệm chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng. ↩“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. ↩Hội nghị lần thứ Năm bế mạc ngày 15-5-2012 vẫn tiếp tục khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. ↩1992-2002. ↩Phát biểu trong phiên bế mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp từ ngày 4 đến ngày 10-9-1980, Lê Duẩn nói “Nhân đây, tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân Đề ra như vậy hoàn toàn đúng với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội, đúng với thực trạng ruộng đất nước ta, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội và phù hợp lợi ích của chính nông dân. Thật vậy, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là tất cả những tư liệu sản xuất cơ bản phải thuộc về của chung. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thống nhất quy hoạch và có chính sách khai thác hợp lý, đầu tư thích đáng, bảo vệ và bồi bổ đất đai trên phạm vi cả nước cũng như ở từng vùng kinh tế, làm sao cho toàn bộ đất đai bảo đảm nuôi sống hơn 50 triệu người, làm sao đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà. Chỉ với điều kiện chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân mới làm được như thế”. ↩“Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội” mà ông Phan Văn Khải làm Tổ trưởng biên tập ghi “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Các hộ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận. Luật pháp quy định cụ thể việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất”. ↩Theo Báo cáo Tổng kết 32 năm phong trào hợp tác hoá nông nghiệp 1958-1990 thì sau một thời gian áp dụng Khoán 100, nhiều nơi, người lao động chỉ còn được hưởng 16-20% sản lượng lương thực mà họ làm ra khi nhận khoán. Động lực sản phẩm bị triệt tiêu, nông dân lại không có cảm giác an tâm vì sự bấp bênh ruộng khoán. Năm 1981, năm đầu thực hiện Chỉ thị 100, sản lượng lương thực trên cả nước tăng thêm một triệu tấn. Năm 1982, mức tăng bắt đầu chững lại; tới năm 1983, 1984 thì mức tăng giảm đáng kể. Tình trạng nông dân nợ “sản phẩm” tăng lên, nhiều nơi xã viên bắt đầu trả khoán. ↩Trước tình hình đó, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã cử một đoàn cán bộ kiểm tra về Thanh Hoá, nơi có “cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc. Ông Nguyễn Ngọc Thọ, thành viên trong đoàn kiểm tra này của Quốc hội, kể lại “Ở một số xã gay go nhất của ba huyện Quảng Xương, Nông Cống, Tĩnh Gia… làng xóm tiêu điều, người qua lại thưa thớt, ai cũng xanh xao, hốc hác, nhớn nhác đi tìm thức ăn. Những quả, củ, lá cây có thể ăn được đều đã bị đào bới, vặt trụi. Ruộng đồng, vườn tược xơ xác, chỉ còn vài mảnh nửa xanh, nửa úa vàng. Khi mà con người bị đói quá, không còn gì để ăn, thì mọi vật dụng quý giá xung quanh đều vô nghĩa. Có người đã dỡ nhà, chẻ cây que thành củi ra chợ đổi một bó lấy ba bát bột mì, bột ngô, nhưng rồi chẳng có ai còn bột mà đổi. Có người đem xe đạp Phượng Hoàng ra rao bán lấy mười lăm ký gạo, sau giảm xuống mười ký cũng không có ai mua. Đồng hồ, khuyên tai, nhẫn vàng… đều không có sức hấp dẫn nữa”. Trong một trận đói trước đó ở Thanh Hoá, theo ông Nguyễn Thành Thơ, phó chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, ông đã gặp một người đàn ông phải cắt bắp chân của mình để nấu cháo cứu con qua trận đói. ↩Nghị quyết 10 “về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” được Bộ Chính trị thông qua ngày 5-4-1988. Khi làm trưởng Ban Cải tạo Nông nghiệp, Võ Chí Công đã cùng Tố Hữu, Vũ Oanh, hô hào xây dựng đại trà hình thức tập đoàn ở miền Nam. Năm 1981, Võ Chí Công nhận thấy sự bế tắc của hợp tác xã và tập đoàn, ông ủng hộ “khoán sản phẩm” và muốn cho khoán luôn tới hộ. Sau Đại hội V, khuynh hướng trở về với các nguyên tắc xây dựng xã hội chủ nghĩa lại trỗi dậy. Chính Võ Chí Công, ngày 3-5-1983, đã thay mặt Ban Bí thư ký Chỉ thị 19, đốc thúc “cải tạo triệt để quan hệ sản xuất trong nông nghiệp”. Đói kém lại càng trầm trọng. Các nhà lãnh đạo trong đó có Võ Chí Công lại phải thay đổi bằng việc cho ra đời “Nghị quyết 10”. ↩Theo Nghị quyết 10 “Đối với đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày, có thể giao quyền sử dụng từ 1 đến 2 chu kỳ kinh doanh. Đối với mặt nước và đất trồng cây lương thực, cây công nghiệp hàng năm, thời gian đó có thể từ 15 đến 20 năm”. ↩Ngày 11-3-1987, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt ký Quyết định 80-CT “Bãi bỏ các trạm kiểm soát trên tất cả các tuyến giao thông trong nước”. ↩Theo ông Nguyễn Thành Thơ, lúc bấy giờ là phó chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam “Một hôm, khoảng bảy giờ tối, anh Nguyễn Văn Linh kêu tôi đến, vào buồng vắng lạnh, anh ngồi bó gối nói Anh báo cáo tình hình nông dân cho tôi nghe’. Tôi báo cáo mặt tốt về chính trị xã hội, mặt khó khăn về kinh tế đời sống. Anh khoát tay Anh thấy không, họ ham xã hội chủ nghĩa hình thức, họ đánh sập nền kinh tế nông dân, nền kinh tế nông dân bị sập làm sao xây dựng nền kinh tế nào được anh!’. Rồi ông Linh nói Anh thương dân, thương nước, anh phải đi cởi trói cho nông dân’”. Sáng hôm sau, ông Nguyễn Thành Thơ quay lại, ông Nguyễn Văn Linh giải thích “Quan điểm của tôi Một, họ nói đất đai là sở hữu toàn dân, có chỗ nào nói sở hữu nhà nước đâu, họ quản lý muốn lấy đất ai họ lấy, lấy đất người này vụt qua đất người kia, lấy đất người kia vụt qua đất người nọ, nông dân không gắn với đất đai làm sao sản xuất tốt được. Hai, nông dân đổ mồ hôi và máu mới có đất, không ai được quyền tước đoạt, thế mà trắng trợn tước đoạt. Ba, Engels nói, sự nghiệp hợp tác hoá là sự nghiệp thế kỷ, họ vào họ đưa đất vào họ ra thì họ lấy đất ra, thế mà tập đoàn viên, xã viên ở ta muốn ra không được lấy đất ra. Bốn, vấn đề giai cấp nông dân là vấn đề chính trị lớn, quyết định thành bại tồn vong của chế độ, của đất nước. Anh thương dân thương nước anh phải đi cởi trói cho nông dân. Anh làm họ bắn anh, nhưng vì dân vì nước anh vẫn phải làm”. Vào Nam, ông Nguyễn Thành Thơ gặp Võ Văn Kiệt tại Vĩnh Long, ông Kiệt nói “Tôi khuyên anh nên thi hành ý kiến anh Nguyễn Văn Linh. Đó là NEP của Lenin chứ không có gì lạ. Anh tiến hành, họ sẽ bắn anh, nhưng anh không từ chối được vì anh đã nhận nhiệm vụ anh Linh giao. Anh đã lên ngựa làm sao anh xuống. Nhưng tôi sẽ đứng sau lưng anh, ủng hộ anh thực hiện”. ↩Ngày 14-4-1993, Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư ký Chỉ thị “Làm cho nhân dân, cán bộ, đảng viên nắm được những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta toàn bộ đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước chỉ giao cho các tổ chức và cá nhân quyền sử dụng đất, không cho mua bán đất; bảo đảm cho những người làm nghề nông đều có ruộng đất để canh tác, Nhà nước giao ruộng đất cho nông dân sử dụng ổn định lâu dài theo thời hạn thích hợp, người sử dụng đất có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước”. Ban Bí thư cũng yêu cầu “Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban Cán sự đảng Chính phủ, đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, các đoàn thể nhân dân khác và ban cán sự đảng của các cơ quan hữu quan ở Trung ương, lãnh đạo tốt việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch lấy ý kiến nhân dân; theo dõi sát sao quá trình thảo luận trong phạm vi cả nước, kịp thời giải thích, uốn nắn những tư tưởng và việc làm lệch lạc; tổng hợp đầy đủ, nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân để chỉnh lý dự án luật trình Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương xem xét, cho ý kiến về những chủ trương lớn, làm cơ sở cho việc hoàn chỉnh dự án Luật đất đai sửa đổi trình Quốc hội thông qua vào tháng 6-1993”. ↩Chủ tịch Lê Quang Đạo nói tiếp “Ai trong chúng ta cũng nói lên tiếng nói của nhân dân, đại biểu cho nhân dân. Nhân dân cả nước có những nguyện vọng chung, giống nhau. Chúng ta đều ý thức điều này và đều ý thức tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không áp đặt, Đảng có chính kiến của mình và kiến nghị Quốc hội, nhưng những vấn đề thuộc chức trách, quyền hạn của Quốc hội là do Quốc hội quyết định… Điều 18 có những ý kiến khác nhau, chúng tôi đã xin Quốc hội cho chúng tôi đước cân nhắc thêm. Hơn nữa, khi công nhận chyển quyền sử dụng đất đai, đã bao hàm vấn đề thừa kế cho con cháu quyền sử dụng đất và luật sau này sẽ định chế thêm vấn đề này”. ↩Đại biểu Lê Minh Tùng, An Giang. ↩Một đại biểu của Thanh Hoá, ông Lê Văn Chỉ, nói “Nếu không có thời hạn cụ thể thì thành ra sở hữu tư nhân rồi còn gì; điều đó sẽ gây ra tình trạng phân hoá giàu nghèo ngay và sau này khó xử lý”. Đại biểu Đặng Quốc Tiến, Bắc Thái, nói “Đất ít, người đông, giao có thời hạn thì sẽ bảo đảm cho công tác điều chỉnh đất đai khi có biến động nhân khẩu”. Chủ tịch Thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh, bắt đầu quan lộ từ một chủ nhiệm hợp tác xã, cũng sợ nếu giao đất lâu dài cộng với 5 quyền thì thành tư nhân hoá đất đai. Ông Nguyễn Bá Thanh nói “Thời hạn ghi trong Dự thảo là thoáng lắm rồi, đi nghĩa vụ quân sự 2 năm thì kêu dài giao đất 20 năm thì bảo ngắn”. Trong khi, một đại biểu đến từ Tây Ninh, ông Đặng Văn Lý, cho rằng “Quy định thời hạn giao đất để làm gì, điều này sẽ làm người dân không yên tâm vì cho rằng Nhà nước lăm lăm lấy lại”. ↩Cho đến tháng 3-1995, chỉ có 23/ trường hợp hợp thức hoá quyền sử dụng đất chịu đóng 100% tiền sử dụng đất. ↩Năm 1995, ông Bùi Văn Thanh mua của bà Nguyễn Thị Nương, ngụ tại ấp 7, xã Thanh Hoà, Lộc Ninh, Bình Phước một căn nhà kèm theo đất, hợp đồng mua bán được làm bằng giấy tay. Năm 1996, sau khi được Uỷ ban Nhân dân huyện Lộc Linh cấp sổ đỏ cho lô đất đã bán cho ông Thanh, bà Nương kiện đòi lại đất. Bà Nương đã thắng kiện vì Toà tuyên bố hợp đồng bà bán nhà đất cho ông Thanh là vô hiệu, vì vào năm 1995 bà Nương chưa được cấp sổ đỏ nên chưa có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất Bản án sơ thẩm số 40/DSST ngày 31-12-2002 của Toà án huyện Lộc Ninh và Bản án phúc thẩm số 38/DSPT ngày 15-04-2003 của Toà án Tỉnh Bình Phước. Vụ tranh chấp kể trên không phải là trường hợp cá biệt ở Việt Nam. Quyền sở hữu trá hình không phải lúc nào cũng được thừa nhận. Nếu 5 quyền của người sử dụng đất được đối xử như một tài sản thiêng liêng của công dân thì phần nhà đất mà ông Thanh mua của bà Nương đã thuộc về ông Thanh ngay sau khi ông trả đủ tiền theo thoả thuận chứ không phải do nhà nước ban phát khi bắt đầu cấp sổ đỏ đối với ruộng đất, sổ hồng đối với nhà. Sổ đỏ, sổ hồng chỉ là một thủ tục ghi nhận giúp minh bạch hoá quyền tài sản của dân chứ tự nó không sinh ra quyền tài sản. ↩Ngày 22-6-1994, Luật thuế Chuyển quyền sử dụng đất được Quốc hội thông qua, theo đó Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chuyển quyền sử dụng đất, sẽ phải chịu thuế suất 10% nếu là đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản và làm muối; 20% nếu là đất ở, đất xây dựng công trình chuyển nhượng lần thứ nhất; 5% với đất ở, đất công trình đã nộp tiền sử dụng đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất từ lần thứ hai trở đi; 40% với trường hợp quyền sử dụng đất đồng thời chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp, đặc biệt là từ đất trồng lúa ổn định, sang đất phi nông nghiệp. Ngày 21-12-1999, Quốc hội đã sửa đổi thuế suất theo đó, thuế chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, thuỷ hải san, làm muối chỉ còn 2%; chuyển quyền đất ở, đất công trình chỉ còn %. ↩Ngày 14-10-1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước khi được nhà nước giao đất và cho thuê đất. Trên cơ sở đó, ngày 13-2-1995, Chính phủ ban hành Nghị định 18. Theo đó các tổ chức trong nước chỉ còn được quyền thuê đất. Nguyên tắc bất hồi tố trong dân sự đã không được áp dụng, Nghị định 18 còn buộc tất cả các tổ chức có đất đã được giao trước đó phải chuyển sang thuê đất. ↩Ngay sau khi có phản ứng của dư luận, người soạn thảo Pháp lệnh 14-10 và Nghị định 18, ông Tôn Gia Huyên giải thích “Ta không có chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, nên ta phải xử lý theo cách mà ta có thể vận dụng được trong nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân” Trả lời phỏng vấn của Huy Đức, Tuổi Trẻ 16-3-1995. ↩Minh Phụng một doanh nghiệp chuyên về may mặc. Năm 1995, Minh Phụng có 10 phân xưởng gia công hàng may, quần áo và giày dép, xuất khẩu; 5 phân xưởng dệt gòn, nhựa, sản xuất bao bì PP… có thời điểm thu hút trên lao động. Nhưng, doanh thu từ các hoạt động đúng chức năng này chỉ chiếm một phần nhỏ. Từ năm 1993, bất động sản trở thành lĩnh vực kinh doanh chính của mình Phụng. Có những khu đất mà Minh Phụng mua chỉ mấy năm sau đã tăng giá lên hàng chục lần. Nhưng, Minh Phụng sau khi Pháp lệnh 14-10 và Nghị định 18 ra đời thị trường địa ốc bắt đầu đóng băng. Để có tiền trang trải, Minh Phụng và sau đó là đối tác của ông, ông Liên Khui Thìn, Tổng giám đốc công ty EPCO, đã phải nhập sắt thép, phân bón, bất chấp giá cả của các mặt hàng này với mục đích duy nhất là bán ra để có tiền mặt. Để lách luật, đối phó với quy định một doanh nghiệp không được vay, bảo lãnh vượt quá 10% vốn một ngân hàng, Minh Phụng và EPCO đã lập ra một hệ thống hàng chục “công ty con”, các công ty này được lập ra chủ yếu để ký các hồ sơ mở tín dụng thư, bảo lãnh hoặc vay vốn ngân hàng, lấy tiền cho Minh Phụng, EPCO đầu tư địa ốc. Chính quyền e ngại một sự sụp đổ nằm ngoài tầm kiểm soát. Ngày 24-3-1997, vào lúc 130 chiều, Tăng Minh Phụng bị bắt và gần như cùng lúc, công an bắt tiếp đối tác của ông ông Liên Khui Thìn. Ông Tăng Minh Phụng được tiếng là một người dồn hết thời gian và sức lực của mình để xây dựng cơ nghiệp. Nhưng, món nợ của ông và đối tác EPCO là quá lớn, gần tỷ đồng và 32,6 triệu USD, trong khi khối tài sản của ông, trên 390 danh mục, gồm 476 đơn vị tài sản là nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, máy móc, kho tàng, văn phòng, biệt thự chỉ được Toà định giá tỷ đồng. Năm 1999, ông bị toà tuyên án tử hình vì tội “lừa đảo”, ngày 17-7-2003, Tăng Minh Phụng cùng một bị cáo khác bị hành quyết. Bị án tử hình Liên Khui Thìn sau đó được giảm án xuống chung thân. Cũng bằng phương thức kinh doanh địa ốc tương tự, Giám đốc Tamexco Phạm Huy Phước, Giám đốc công ty Bình Giã Trần Quang Vinh cũng bị tử hình, án thi hành năm 1998. ↩Trước kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX, Chính phủ đã gửi tới các đại biểu Quốc hội một báo cáo nói rằng, ngân sách 1995 sẽ thất thu hơn 1000 tỷ đồng vì những ách tắc do thực hiện Pháp lệnh 14-10 và Nghị định 18. ↩Luật có hiệu lực từ 1-1-1999, tuyên bố hết hiệu lực với Pháp lệnh 14-10-1994; Pháp lệnh sửa đổi ngày 27-8-1996. ↩Thay vì phải thuê, Luật chỉ coi thuê đất như một lựa chọn, các “tổ chức kinh tế” không chỉ được giao đất “xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê, xây dựng kết cấu hạ tầng” mà còn được giao đất để “làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh”. Luật còn giao đất cho “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” được giao đất để “thực hiện các dự án đầu tư”. ↩Theo Điều 75 Luật Đất đai 1993 và Điều 706 Bộ luật Dân sự năm 1995 Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng chỉ được chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi “chuyển đến nơi cư trú khác để sinh sống; chuyển sang làm nghề khác; không còn hoặc không có khả năng trực tiếp lao động”. Luật Đất đai năm 2003 cho phép cá nhân, tổ chức, hộ gia đình được chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không cần những điều kiện này. ↩Huy Đức, Tuổi Trẻ 12-11-1998. ↩Nghị định 181 hướng dẫn chi tiết thi hành. Theo đó, ngoài các trường hợp xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế như luật định, Nhà nước còn được thu hồi đất đối với các dự án a Đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch với điều kiện dự án thuộc nhóm A và không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế; b Các dự án sử dụng vốn ODA; c Các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài với điều kiện dự án không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Chỉ riêng loại dự án thuộc nhóm A, theo quy định tại Nghị định 16 sau đó được thay thế bằng Nghị định 12, được chi tiết hoá thành trên 50 lĩnh vực khác nhau ngoài ra còn đưa thêm các khái niệm như “dự án xây dựng khu nhà ở”, “dự án xây dựng công trình dân dụng khác”. ↩Nghị định 84 năm 2007 bổ sung một loạt khái niệm không có trong Luật Đất đai như “Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế quan trọng”; Nhà nước thu hồi đất để “xây dựng các khu kinh doanh tập trung”. Theo đó, các dự án khu dân cư bao gồm dự án hạ tầng khu dân cư và dự án nhà ở, trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp; dự án khu thương mại – dịch vụ, khu vui chơi giải trí ngoài trời, khu du lịch… đều thuộc danh mục Nhà nước thu hồi đất để phát triển, xây dựng. Danh mục các trường hợp Nhà nước thu hồi đất còn được mở rộng hơn khi Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư 06 hướng dẫn thi hành chi tiết. ↩Ngày 5-1-2012, khi bị huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, cưỡng chế thu hồi 19,5 hecta đất đầm do chính anh khai hoang, lấn biển và được huyện, năm 1997 giao với thời hạn 14 năm, người nhà anh Vươn đã dùng súng đạn ghém bắn bị thương 6 công an và bộ đội. Anh Vươn và 3 người em sau đó đã bị bắt, bị khởi tố với tội danh giết người. Ngày 24-4-2012, 160 hộ dân Văn Giang, Hưng Yên, đã chống lệnh cưỡng chế thu hồi đất của họ giao cho dự án Ecopark. ↩Nghị quyết 10 ban hành tháng 4-1988 trong năm ấy sản lượng lương thực tăng lên 2 triệu tấn. ↩Năm 1995, sau gần 10 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người tính theo sức mua, Việt Nam vẫn thua Thái Lan 4,4 lần, thua Singapore 27 lần và thua Hàn Quốc 13 lần. Năm 2009, theo Báo cáo Phát triển Việt Nam của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn bị tụt hậu 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore. Nhưng, “cơm, áo” chỉ là một phần nhu cầu của con người. Người dân Việt Nam còn xứng đáng được hưởng những giá trị mà người dân ở các quốc gia tự do đang được hưởng. ↩Xem Chương III Đánh Tư Sản. ↩Mặc dù tuyên bố từ con để gây áp lực nhưng trước khi ra đi theo “Phương án II”, ông Lý Tích Chương đã tìm một người Hoa thân tín, gửi lại 10 lượng vàng, dặn cứ để cho Lý Mỹ nếm cực khổ, tới khi nào cô không chịu nổi nữa thì đưa số tiền ấy cho cô vượt biên. Khi ngôi nhà cha mẹ để lại cho Lý Mỹ bị chiếm mất, thay vì đấu tranh để trả lại tài sản cho cô, Lý Mỹ lại được động viên, “lý tưởng Đoàn không cần tài sản”. Nhưng kể từ đó, cho dù được những đoàn viên cộng sản thế hệ 30-4 cố gắng quan tâm, Lý Mỹ bắt đầu khép mình, cô độc. Đêm nào Lý Mỹ cũng phải sống trong nước mắt, phải sống trong những lúc đói quay quắt, những lúc bị đòi nợ… Chính tình thương yêu gia đình đã giúp Lý Mỹ vượt qua những cám dỗ. Cô tiểu thư con nhà tư sản ấy, mỗi tối lại đi bưng cà phê, đi dọn bàn kiếm tiền… để học xong đại học. Năm 1985, không thấy Lý Mỹ vượt biên, người bạn của gia đình mới trao lại 10 cây vàng cho cô làm ăn. Đến lúc ấy, Lý Mỹ mới biết, chuyến vượt biên của gia đình thành công. Nhưng trong thời gian ở trại tị nạn Malaysia, ông Lý Tích Chương lâm bịnh. Vào đúng hôm gia đình được chấp nhận đi định cư ở Úc, ông Chương mất. Tuy Lý Mỹ đã không bỏ Việt Nam ra đi như gia đình cô tiên liệu, nhưng cô cũng không trở thành một Pavel Korchagin Nhân vật trong tiểu thuyết How the Steel Was Tempered của Nikolai Ostrovsky. Như một thanh thép đã được tôi, Lý Mỹ tự chọn lấy con đường cho mình. Cô nữ sinh điển hình trong chiến dịch cải tạo tư sản năm 1978, 30 năm sau, lại trở thành một nhà tư sản. Lý Mỹ hiện cùng chồng, hoạ sỹ Nguyễn Văn Vinh, sở hữu bốn công ty kinh doanh trong lĩnh vực truyền thông và xuất nhập khẩu. ↩Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, tập 4, trang 64-66. ↩
12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính 1/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Huy Đức Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính MỤC LỤC PHẦN III. Dấu ấn Nguyễn Văn Linh 12. Cởi trói 13. Đa nguyên 14. Khoảng cách Linh - Kiệt 15. Tướng Giáp PHẦN IV. Tam nhân 2/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính 16. Thị trường 17. Tam quyền không phân lập 18. Tam nhân phân quyền 19. Đại hội VIII 20. Lê Khả Phiêu và ba ông cố vấn 21. Định hướng xã hội chủ nghĩa 22. Thế hệ khác PHỤ LỤC Mấy lời của tác giả Tôi rời Campuchia trước khi Việt Nam rút hết \"Quân tình nguyện\". Khi học ở trường chuyên gia quân sự 481, chúng tôi được chuẩn bị tư tưởng để \"giúp bạn lâu dài\". Nhưng thay vì ở lại hàng thập niên, tôi chỉ phải ở lại Campuchia gần bốn năm. Tôi quyết định rời quân đội. Một cá nhân cũng như một quốc gia, súng ống chỉ nên được lựa chọn khi không còn con đường nào khác. Cuối năm 1987, tôi bắt đầu làm việc ở Văn phòng huyện ủy Nhà Bè. Thời gian ấy, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang viết \"Những việc cần làm ngay\". Công việc ở Văn phòng huyện ủy thật an nhàn, tôi đã sử dụng phần lớn thời gian để viết văn và viết bài cho các báo. Sau khi đọc những bài báo ấy, Bí thư huyện ủy Trần Văn Đông giao cho tôi phụ trách biên tập tờ tin và đài truyền thanh huyện Nhà Bè. Chỉ mấy tháng sau, tôi được nhà văn Nguyễn Đông Thức đưa về Tuổi Trẻ. Không chỉ có kho sách cực kỳ phong phú của thư viện Đắc Lộ mà tờ Tuổi Trẻ tiếp quản sau khi các giáo sỹ dòng Tên bị bắt năm 1979, đội ngũ Tuổi Trẻ thời \"161 Lý Chính Thắng\" cũng là một \"kho tư liệu\" vô giá. Không phải ai ở trong cái không khí \"thanh niên sôi nổi\" ấy cũng biết hết những trắc ẩn trong lòng các đồng nghiệp của mình. Ở đây, tôi gặp những đồng nghiệp về sau trở thành nhân vật trong cuốn sách của mình. Ở đây, tôi gặp những con người lặng lẽ, 3/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính tưởng quá khứ đã được chôn chặt, như biên tập viên Lệ Xuân, con gái ông Nguyễn Thành Đệ, người sau khi đóng 200 lượng vàng để vượt biên theo Phương án II không thành bị lấy nốt căn nhà cuối cùng 1 ; thư ký tòa soạn Võ Văn Điểm - chủ biên đầu tiên của tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Tuổi Trẻ Cười - người có vợ và hai con chết trên biển trong một chuyến vượt biên. Thế hệ chúng tôi may mắn được làm báo sau \"đổi mới\". Những người viết có trách nhiệm nhận thấy một cơ hội to lớn sau tuyên bố \"cởi trói\" của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh để không còn tiếp tục sự nghiệp viết lách bằng thứ văn chương minh họa hay báo chí tô hồng. Đó là một thời đáng nhớ của văn nghệ và báo chí. Rất tiếc là chỉ hơn một năm sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh kêu gọi văn nghệ sỹ tự cứu mình, tự ông đã có nhiều thay đổi. Ngay trong khuôn viên 161 Lý Chính Thắng, chúng tôi có thể cảm nhận sự căng thẳng. Có lúc một số phóng viên Tuổi Trẻ đã phải chuẩn bị cho khả năng bị khởi tố. Có những buổi chiều, nhất là sau khi Tổng biên tập Vũ Kim Hạnh đi gặp Phó bí thư Thành ủy Bảy Dự Nguyễn Võ Danh, đi gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, đi gặp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ trở về…, chúng tôi nín thở chờ chị bàn bạc với anh Ba Lãng 2. Những hôm gay cấn, hai người còn phải tham vấn Cựu Tổng biên tập Võ Như Lanh 3. Cho đến trước khi ông Nguyễn Văn Linh hết nhiệm kỳ, những người tiên phong trong văn nghệ, báo chí đều phải ra đi gần hết. Tuổi Trẻ còn tạo cơ hội cho tôi bước ra bên ngoài khuôn viên \"161 Lý Chính Thắng\". Tôi may mắn được phân công viết đủ các loại đề tài, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới văn hóa, từ hoạt động của các cơ quan tố tụng đến các hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, từ trung ương tới địa phương. Từ năm 1989, tôi trực tiếp đưa tin hầu hết các vụ án lớn xảy ra trên cả nước, theo dõi từ giai đoạn khởi tố điều tra cho đến khi nội vụ được đưa tới tòa. Cũng từ năm 1989, tôi được giao viết về các kỳ họp Hội đồng nhân dân và sau đó có mặt ở Hội trường Ba Đình gần như mỗi kỳ Quốc hội họp. Những năm đầu thập niên 1990, chúng tôi được bố trí ăn, ở với các đoàn đại biểu tại nhà khách số 8 Chu Văn An; được dự hầu hết các phiên thảo luận mà các đại biểu đang là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị. Chúng tôi cũng dễ dàng gặp gỡ, trò chuyện với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch 4/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Quốc hội Lê Quang Đạo, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh… Cánh nhà báo chúng tôi 4 có nhiều cơ hội trao đổi, đủ loại thông tin, với các nhà lãnh đạo cả khi tác nghiệp, khi bên tách trà và không ít khi bên chén rượu. Chính trường được phản ánh trong cuốn II bao gồm những gì mà tác giả có thể quan sát từ cự ly rất gần. Ở những thời điểm nóng bỏng nhất, tôi có thể vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải; tôi cũng có không ít dịp đến nhà riêng, vào phòng làm việc của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn. Chúng tôi chứng kiến một cách trực tiếp các xung đột giữa những người chủ trương kinh tế thị trường với những người lo \"chệch hướng\", những xung đột đã làm biến dạng khá nhiều chính sách. Tất cả những tư liệu ấy đều được tôi lưu trữ. Nhưng không chỉ dừng lại ở những ghi chép của mình, từ năm 2003, khi bắt đầu tập trung phần lớn thời gian cho cuốn sách này, tôi ngồi điểm lại toàn bộ tư liệu mình đã thu thập được, đánh dấu các khoảng trống và bắt đầu tiến hành thêm hàng ngàn cuộc phỏng vấn. Với sự giúp đỡ của một nhóm sinh viên và một số nhà nghiên cứu trẻ, tôi bắt đầu đối chiếu lời kể của các nhân chứng với các ghi chép của chính họ, của tôi với các sự kiện mà mình trực tiếp quan sát trong thời gian làm báo, đối chiếu với báo chí ở các thời điểm khác nhau, với lời kể giữa các nhân chứng và đặc biệt là đối chiếu với các tài liệu gốc, gồm thư từ, công văn, chỉ thị, nghị quyết và biên bản các cuộc họp. Cuốn II bắt đầu từ thời điểm ông Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền cho đến khi ba ông cố vấn đưa ông Lê Khả Phiêu ra khỏi chiếc ghế tổng bí thư. Tuy có những câu chuyện còn kéo dài đến sau Đại hội Đảng lần thứ XI 1-2011, nhưng hai chương cuối của cuốn II chủ yếu nói về \"cái đuôi\" chủ nghĩa xã hội và những hệ lụy mà xã hội Việt Nam đang gánh chịu. Chương Tướng Giáp được đặt ở vị trí cuối phần \"Dấu ấn Nguyễn Văn Linh\", bắt đầu bằng một nỗ lực nhằm hạ uy tín của \"vị tướng Điện Biên\" diễn ra cuối nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhưng chủ yếu nói về mối quan hệ giữa Lê Duẩn - Tướng Giáp - Lê Đức Thọ. Những xung đột quyền lực đã chi phối phần lớn các quyết định liên quan đến cuộc chiến diễn ra thời thập niên 1960, kéo dài tới giữa thập niên 1980, liên quan đến không ít máu xương và để lại khá nhiều di chứng. Phần còn lại của cuốn II chủ yếu viết về những gì diễn ra bên trong Ba Đình thời thập niên 1990. Thời mà ý thức hệ không chỉ tồn tại 5/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính như một đức tin của những người cầm quyền mà còn trở thành những công cụ chính trị phục vụ cho quyền lực. Tuy nhiên, Quyền Bính không phải là một cuốn sách nói chuyện \"thâm cung bí sử\" cho dù có nhiều câu chuyện, có nhiều nhân vật được đặc tả rất cận cảnh. Những câu chuyện được kể trong cuốn sách này là sự chia sẻ của rất nhiều người trong cuộc về một giai đoạn mà Việt Nam đã bỏ lỡ những cơ hội có thể đi tới mục tiêu \"công bằng, dân chủ, văn minh\" do chính đảng cầm quyền đề ra. Tuy kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt quốc gia và đời sống nhân dân nhưng Việt Nam vẫn tụt hậu cho dù \"nguy cơ\" này đã được chỉ ra từ năm 1994. Chính sách đất đai, thay vì lựa chọn những phương thức sở hữu giải phóng tối đa tiềm lực trong đất và trong dân lại cứ tự trói buộc vào sở hữu toàn dân, chỉ vì phương thức này được coi là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thay vì chọn phương thức hiệu quả nhất đã phải để cho kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Hệ thống chính trị thay vì lấy sự minh bạch, đảm bảo nguyên tắc kiểm soát quyền lực để có thể mang lại công lý và tránh tham nhũng, lạm quyền lại ưu tiên đảm bảo vị trí cầm quyền của Đảng. Quyền Bính tiếp tục nói về những khúc quanh của Việt Nam. Nói về những thời điểm mà đảng cầm quyền thay vì nắm bắt tư duy của thời đại và ý chí của nhân dân, chỉ có thể loay hoay trong một cái vòng tự vẽ. Hệ thống chính trị, trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm. Sài Gòn – Boston 2009-2012 PHẦN III. Dấu ấn Nguyễn Văn Linh Chương XII Cởi trói Cho dù tuyên bố \"cởi trói\" của Nguyễn Văn Linh là \"ngứa miệng kêu\" như ông nhận, hay là sách lược được áp dụng khi mới cầm 6/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính quyền, thì sự thật là các hoạt động văn nghệ và báo chí sau đó đã bắt đầu được đặt trong một không gian mà tự do chỉ mở dần ra chứ không thể nào bóp lại. Những Việc Cần Làm Ngay Chiều chủ nhật 24-5-1987, tòa soạn chuyển lên Ban Biên tập báo Nhân Dân một phong thư, nói là của một \"người đứng tuổi nhờ đưa ngay cho đồng chí tổng biên tập\". Bảo vệ mô tả, \"người đứng tuổi\" đi xe Lada và có một người cận vệ nói giọng miền Nam. Chi tiết quan trọng nhất để Ban Biên tập báo Nhân Dân liên hệ giữa bút danh ký trong thư, với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là chiếc xe Lada. Theo nhà báo Hữu Thọ 5 \"Khi ấy các ông trong Bộ Chính trị đều đi xe Volga hết\". Sáng 25-5-1987, trên trang nhất Nhân Dân xuất hiện một bài báo với đầu đề in chữ đậm \"Những việc cần làm ngay\". Không phải là một thông điệp chính trị như một vị nguyên thủ quốc gia, bài báo đầu tiên của Tổng Bí thư yêu cầu \"Trật tự giá cả cần phải được tôn trọng\". Dẫn ra các \"nguyên nhân bất chính\" làm tăng giá như \"bọn phá hoại lâu lâu lại phao tin lên lương đổi tiền\", \"nhiều địa phương, nhiều cấp tự ý lên giá bất hợp pháp\", \"nhiều cơ sở ghìm hàng gây khan hiếm giả tạo\",… ông Linh coi lập lại trật tự giá cả \"thật sự là một việc cấp bách, cần phải làm ngay\". Ông Linh yêu cầu \"các cơ quan tuyên truyền phải chỉ đích danh những cá nhân, những cơ quan, những tổ chức làm các việc trái với Nghị quyết Trung ương\"; đòi \"các cơ quan pháp luật phải lôi các vụ việc sai trái lớn ra nghiêm trị\" và đồng thời đưa kết quả xử lý \"lên các cơ quan ngôn luận cho dân biết\". Bài báo thứ hai, đăng vào ngày 26-5-1987, của Tổng Bí thư cũng chỉ nhặt từ một thông tin đăng trong mục \"Ý kiến bạn đọc\" của báo Nhân Dân, số ra ngày 21-5-1987, về việc \"kho lạnh Bến Bính Hải Phòng làm hỏng 360 tấn tỏi khô trị giá khoảng 20 triệu đồng\". Sau khi đặt câu hỏi \"Ai là người phải chịu trách nhiệm? Hình phạt sẽ ra sao?\", Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đưa ra khái niệm \"im lặng đáng sợ\" để chỉ thái độ bất chấp của các cơ quan nhà nước trước \"nhiều vụ việc sai phạm rất lớn do quần chúng phát hiện\" và được \"báo chí từ Bắc chí Nam\" đăng tải. Một tuần sau khi khởi đăng \"những việc cần làm ngay\", ngày 2-6-1987, báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh cho đăng lại loạt bài \"Vật tư rơi vào tay ai\" của báo Hàng Không Việt Nam. Đây là loạt 7/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính phóng sự điều tra của một nhóm nhà báo dũng cảm viết về tiêu cực của hai cán bộ cấp cục, đăng trên chính tờ báo của ngành. Bằng những tư liệu điều tra chuẩn xác, các nhà báo đã công khai danh tánh cục trưởng và cục phó Cục Quản lý bay, nhân được tổng cục trưởng Hàng không cấp 500 nghìn đồng để xây nhà, đã lập ra một \"Ban Kiến thiết\" gồm bảy cán bộ, trong đó có một trung tá làm trưởng ban để \"lo việc xây dựng nhà riêng cho mình\". Đội xây dựng do Cục Quản lý bay lập ra đã lao động trong vòng nửa năm mới xây xong hai ngôi nhà. Theo bài báo thì chỉ riêng việc vận chuyển vật tư, Cục đã phải \"huy động 150 chuyến xe ô tô, tiêu hao lít xăng\". Kết quả là \"hai căn villa lớn, khá đẹp cạnh nhau, nổi hẳn lên giữa những căn nhà thấp lè tè của cán bộ, công nhân viên sân bay Gia Lâm\". Loạt bài điều tra này đã được đăng phần đầu trên báo Hàng Không Việt Nam từ ngày 7-4-1987, nhưng phần tiếp theo thì không thể đăng vì \"ban biên tập đã bị nhiều sức ép\". Ngay sau khi Nguyễn Văn Linh cho đó là sự \"im lặng đáng sợ\", một đoàn kiểm tra đã được lập ra. Báo Tuổi Trẻ ngày 7-7-1987 cho đăng kết luận của đoàn, xác nhận \"Một số cán bộ có chức có quyền ở ngành Hàng không đã gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa\". Đặc biệt đoàn kiểm tra nhấn mạnh, việc cho ngưng loạt bài điều tra là \"xâm phạm quyền tự do báo chí\" và tuyên bố \"Báo Hàng Không sẽ đăng tiếp phần còn lại\". Kể từ bài báo đầu tiên đăng ngày 26-5-1987 cho đến ngày 30-5, ngày nào Nguyễn Văn Linh cũng có bài đăng trên mục \"Những việc cần làm ngay\". Nhịp độ này tuy có thưa ra trong tuần lễ thứ hai, nhưng trong tháng 6-1987, gần như tuần nào ông Nguyễn Văn Linh cũng gửi tới báo Nhân Dân ít nhất là một bài báo ngắn. Hễ cứ báo Nhân Dân cho đăng \"những việc cần làm ngay\" là các báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Thanh Niên và các tờ báo Đảng tại các địa phương lại đăng lại nguyên văn trên đầu trang nhất. Việc Tổng Bí thư viết báo, nay đề nghị \"quản lý giá cả\", mai đề nghị \"phải đưa những cán bộ, đảng viên tốt vào ngành thương nghiệp quốc doanh\", làm nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Trong Ban Bí thư, theo nhà báo Hữu Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thanh Bình đã can ngăn ông Linh đừng viết nữa. Ngày 10-7-1987, ông Nguyễn Văn Linh đã công khai trả lời sự can ngăn này 6 1987, báo Nhân Dân cho đăng xã luận \"Hưởng ứng những việc cần làm ngay\". Để rồi, ngay sau đó, các báo mở chuyên mục thường xuyên và gần như bất cứ chỉ thị nào của các bộ, ngành, địa phương cũng bắt đầu bằng khẩu hiệu 8/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính \"Hưởng ứng những việc cần làm ngay\" mà báo Nhân Dân đưa ra ngày 13 tháng Bảy. Tại Sài Gòn, Thành ủy ra nghị quyết yêu cầu các cấp ủy, ban ngành, đoàn thể từ thành phố đến phường, xã phải tổ chức xem xét và \"xử lý ngay những vấn đề mà đồng chí nêu\"; các ngành, các cấp của Thành phố \"phải học tập đồng chí tự mình nêu ra những việc cần làm trong ngày, tuần, tháng không chỉ trong mặt trận chống tiêu cực mà trên nhiều lĩnh vực hoạt động khác\" 7. Ngày 25-6- 1987, khi sơ kết cuộc vận động, mọi thành tích trên các lĩnh vực khác nhau đều được Thành ủy coi là nhờ hưởng ứng \"những việc cần làm ngay\" mà có 8. Báo chí, từ chỗ đang viết những bài ca ngợi, chuyển sang \"phanh phui\" những gì bị coi là tiêu cực. Những vụ việc ở \"Phòng thuế quận Tư\", ở \"Tổng cục Trang bị Kỹ thuật, Bộ Nông nghiệp\" đã được đăng trên báo và bị quên lãng, khi có \"Những việc cần làm ngay\" của Nguyễn Văn Linh, bắt đầu được \"cày, xới\" lại. Báo chí không ngại ngần nêu đích danh cả những ủy viên Trung ương như Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Hà Trọng Hòa. Ngày 19-9-1987, Hội Nhà báo tổ chức hội thảo khẳng định \"báo chí nhất định thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực\". Ngày 21- 9-1987, Ban Bí thư ra Chỉ thị 15, đánh giá \"Hoạt động vừa qua của báo chí chống tiêu cực bước đầu đem lại niềm tin cho quần chúng, thúc đẩy các vụ tiêu cực được xử lý nhanh hơn\". Ban Bí thư phê phán \"một số cán bộ lãnh đạo địa phương chưa biết sử dụng và ủng hộ báo chí làm công cụ chống tiêu cực\". Ngày 4-9-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng kêu gọi báo chí \"phát huy mạnh mẽ sức mạnh của mình\". Sau khi thuyết phục được báo giới, ông Nguyễn Văn Linh chuyển sang tìm kiếm ảnh hưởng của mình trong giới văn nghệ. Người giới thiệu ông Linh với văn nghệ sỹ là Tướng Trần Độ 9, Trưởng Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương. Trần Độ lúc đó cũng đang cần sự ủng hộ của Tổng Bí thư cho một nghị quyết mà ông thai nghén nhằm \"đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ\". Nghị quyết của Trần Độ về sau nổi tiếng với tên gọi \"Nghị quyết 05\". Ngay từ giai đoạn chuẩn bị Nghị quyết 05, không khí dân chủ trong xã hội đã được khởi động bởi nhiều cuộc hội thảo và, đặc biệt, cuộc đối thoại với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Theo Tướng Trần Độ 9/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính thì chính ông Nguyễn Văn Linh muốn có cuộc gặp này để ông \"trực tiếp nghe tiếng nói của anh em\" văn nghệ. Cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa diễn ra trong hai ngày 6 và 7-10-1987. Hơn 100 đại biểu được coi là \"tinh hoa\" của giới đã về dự. Mở đầu cuộc làm việc, Tổng Bí thư chỉ nói trong chừng năm phút. Ông nêu băn khoăn, \"hình như từ sau ngày giải phóng văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn\" rồi đề nghị các nhà văn tìm nguyên nhân có phải do có sự kiểm duyệt hay có sự hạn chế gì? Khi thấy các nhà văn cứ vòng vo, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói \"Còn rào đón thì chưa chuyển biến được đâu!\". Được Tổng Bí thư mở lời, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện thừa nhận, văn học nghệ thuật còn bị trói buộc, sự lãnh đạo văn nghệ còn thô sơ, tác giả và tác phẩm dễ dàng bị kết án. Ông nói \"Bản án nào cũng có kỳ hạn, mãn hạn tù, còn bản án văn học thì cứ mãi treo lơ lửng, có khi còn hại đến cả con cháu\". Những người phát biểu gay gắt như Nguyễn Khắc Viện, Dương Thu Hương đều được Tổng Bí thư đứng dậy bắt tay. Thái độ của Tổng Bí thư đã đánh thức sỹ khí của những người từ lâu sống trong sợ hãi. Họa sĩ Phan Kế An gọi những sai lầm đối với văn học nghệ thuật là \"Maoist\". Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ chỉ trích tình trạng \"một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu\". Ông Vũ nói \"Sự độc đoán về tư tưởng bóp chết sáng tạo, làm khô kiệt văn học và nghệ thuật\". Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng \"Chiến tranh quá dài đã khiến chúng ta nói quá nhiều, quá sâu về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù và gần như trong một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé, về cha mẹ, về gia đình... Chiến tranh đã khiến cho cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học đều nhất loạt bị đồng nhất với chính trị\". Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh ví văn nghệ sỹ như những \"con chim bị trói\". Theo ông Mạnh \"Có thời lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Mà con người bị coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn kém, nhỏ lại\". Trong năm mươi phút phát biểu sau cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đồng ý là phải \"cởi trói\" mới phát huy hết khả năng của văn nghệ sỹ. Mặc dù thừa nhận \"Trước hết, tôi nghĩ Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ\", nhưng ông Linh vẫn cho rằng \"Không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm. Nghe các đồng chí nói, tôi rất thông cảm. Chính vì 10/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính thông cảm mà sáng nay tôi đã ngứa miệng kêu hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu\". Ông Nguyễn Văn Linh chia sẻ \"Tôi không phải là nhà văn nghệ, nhà báo nhưng ngứa ngáy quá nên vừa rồi mới viết \"Những việc cần làm ngay\". Nhiều người hoan nghênh, hưởng ứng nhưng không phải không có những người cho rằng sao lại bôi đen chế độ\". Không khí cuộc gặp và phát biểu của Tổng Bí thư đã khiến cho ông Nguyễn Kiên, một nhà văn được coi là trầm tĩnh nhất cũng phải thốt lên \"Có cảm giác là chúng ta đã bắt đầu bước sang một thời kỳ khác\" 10. Không phải tự nhiên ông Nguyễn Văn Linh chọn báo chí, văn nghệ, thay vì chọn hệ thống tổ chức mà ông đứng đầu để gây ảnh hưởng chính trị cho mình. Ông Linh hiểu mình ở đâu trong bàn cờ Hà Nội. Khi mới được bầu làm tổng bí thư, ông Nguyễn Văn Linh nói trước Ban Chấp hành Trung ương \"Trước đây, tổng bí thư thường hơn các đồng chí khác trong Bộ Chính trị một cái đầu; nay, chúng tôi chỉ hơn kém nhau sợi tóc\". Ông Nguyễn Văn Linh mới được bổ sung vào Bộ Chính trị tháng 6-1985 và được cử làm thường trực Ban Bí thư từ tháng 7-1986. Cho đến khi ấy, ông Linh chỉ thực sự có sáu tháng kinh nghiệm xử lý công việc ở tầm quốc gia. Theo ông Trần Phương \"Sinh thời, anh Ba không đánh giá cao Nguyễn Văn Linh\" 11. Việc ông Linh bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội V là ý kiến của chính Tổng Bí thư Lê Duẩn. Tháng 12-1981, ông Nguyễn Văn Linh bị đưa trở lại Sài Gòn làm bí thư, một chức vụ mà ông đã giữ từ năm 1945. Nhưng Sài Gòn không phải là chặng đường cuối cùng của sự nghiệp Nguyễn Văn Linh như nhiều người lúc bấy giờ dự đoán. Sài Gòn năm 1981 là một thành phố lớn, bộ máy công an, quân đội, báo chí và vị trí của nó có thể đưa ảnh hưởng chính trị của người lãnh đạo vượt ra khỏi khuôn khổ địa phương. Khác với những lần làm bí thư bí mật, và sau nhiều năm giữ những chức vụ chỉ có danh, ông Nguyễn Văn Linh có được trong tay một chính quyền thực sự. Cũng như Võ Văn Kiệt, ông đã khai thác rất tốt lợi thế ấy. Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm một thập niên sau \"ngày giải phóng\", ông Nguyễn Văn Linh cho xuất bản cuốn Thành Phố Hồ Chí Minh 10 Năm, phê phán sự \"choáng ngợp trước thắng lợi\" và chỉ trích những cán bộ tiếp quản miền Nam hồi năm 1975 là \"thừa nhiệt tình và thiếu kiến thức\". Cuốn sách - được biên soạn bởi những người thạo việc viết lách nhất của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, được Nhà Xuất 11/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính bản Sự Thật in tới cuốn - đã gây được uy tín rộng rãi cho người đứng tên 12. Tuy nhiên, những gì gây chú ý trong cuốn sách này của Nguyễn Văn Linh chủ yếu nằm trong luồng gió \"chống bệnh duy ý chí\" mà ông Trường Chinh đang bắt đầu. Từ đó cho đến Đại hội VI, Nguyễn Văn Linh gần như không có đóng góp gì thêm cho \"đổi mới\" 13. Ngay sau Đại hội VI, vừa lo lắng cho người kế nhiệm, vừa lo lắng cho sự nghiệp thực thi những chính sách mà mình mới đưa ra, Trường Chinh nói với Nguyễn Văn Linh \"Anh lên, công việc bề bộn, phải có người giúp việc. Nếu anh muốn, tôi sẽ nhường Trần Nhâm, Hà Nghiệp cho anh\". Nhưng theo Trần Nhâm, ông Linh lạnh lùng \"Tôi không muốn người ta nói tôi được rút ra từ trong lò Trường Chinh\". Công chúng càng ít biết đến Trường Chinh như một kiến trúc sư đổi mới bao nhiêu, lại càng gắn vai trò này cho Nguyễn Văn Linh bấy nhiêu 14. Nguyễn Văn Linh nắm được lợi thế đó và trong khoảng thời gian ngắn ngủi lúc đầu, ông đã truyền được thêm cảm hứng cho đổi mới. Đặc biệt trong những bước đi đầu nhiệm kỳ, sau khi Nguyễn Văn Linh chạm tay vào \"đèn xanh\", giới văn nghệ sỹ đã phá vỡ không ít xiềng xích mà họ đã bị tròng vào hơn hai thập niên trước đó. Xiềng xích \"Nhân văn\" Báo chí xuất hiện ở Việt Nam chỉ ba năm sau khi người Pháp đặt chân lên \"Lục tỉnh\". Ngày 1-2-1865, tại Sài Gòn, Trương Vĩnh Ký cho xuất bản Gia Định Báo. Tiếp theo đó là sự ra đời của Phan Yên Báo, Nông Cổ Mín Đàm. Đầu thế kỷ 20, giới phụ nữ Việt Nam cũng đã có tiếng nói riêng với tờ Nữ Giới Chung do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút. Báo chí miền Bắc ra đời muộn hơn 15. Nhưng, ở đây lại là nơi bắt đầu các phong trào Tự Lực Văn Đoàn, năm 1933; Tiểu Thuyết Thứ Bảy, năm 1934; Thơ Mới, cuối thập niên 1930… Đến năm 1939, Việt Nam có 48 nhật báo, 68 tập san và 292 tác phẩm xuất bản bằng quốc ngữ. Đi cùng văn chương, báo chí, là âm nhạc và hội họa. Các tác phẩm đỉnh cao của âm nhạc Việt Nam từng xuất hiện trong thời tiền chiến. Nhưng tháng 8-1945, những người cộng sản cướp chính quyền. Ở đâu có đảng cộng sản cầm quyền, ở đó bắt đầu có cách mạng về văn hóa. 12/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Từ ngày 25 đến 28-3-1943, Ban Thường vụ Trung ương mở hội nghị tại làng chài Võng La thuộc huyện Đông Anh, Phúc Yên, nhằm phản ứng với tình hình trong nước và trên thế giới. Cũng trong những ngày ấy, Trường Chinh viết Đề Cương Văn Hóa Việt Nam, nêu rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương Văn hóa là một trong ba mặt trận cùng với kinh tế, chính trị ở đó người cộng sản không chỉ làm cách mạng chính trị, mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Cũng từ năm 1943, Trường Chinh đã đưa những quan điểm này vào công cuộc lãnh đạo các hoạt động văn hóa cứu quốc. Đây là đường lối dựa trên các nguyên lý văn nghệ của Mao Trạch Đông bắt văn nghệ phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ. Đề cương Văn hóa của Trường Chinh thoạt đầu chưa phải đã có khả năng chi phối, ngay cả với những người làm \"văn hóa cứu quốc\". Tại Hội nghị Quốc dân Tân Trào, tháng 8-1945, Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, những nhà lãnh đạo Hội Văn hóa Cứu quốc, từng đưa ra những quan điểm khác hẳn với Trường Chinh. Quan điểm của Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh càng trở nên khác nhau hơn trong các cuộc tranh luận tại Hội nghị Văn hóa Cứu quốc toàn quốc, tháng 10-1946. Lúc bấy giờ, Chính phủ Hồ Chí Minh chỉ gồm một lực lượng kháng chiến ẩn náu trong rừng. Trường Chinh vẫn đang hành xử như một nhà chính trị chứ chưa hành xử như một người cầm quyền. Nhiều cuộc tranh luận vẫn được diễn ra dân chủ. Nhưng, tháng 7-1948, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ II, Hội Văn hóa Cứu quốc đã bị giải tán để thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ mà Mao Trạch Đông áp dụng với người Trung Quốc. Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc Nguyễn Đình Thi được làm phó tổng thư ký Hội Văn nghệ. Sau Hội nghị Việt Bắc, 1949, nơi tất cả văn nghệ sỹ kháng chiến được triệu tập về ngồi kiểm điểm nhau suốt ba ngày. Sau \"thơ không vần\" của Nguyễn Đình Thi cùng với \"tranh lập thể\" của Tạ Tỵ, Văn Cao trở thành mục tiêu phê phán công khai; sau khi đưa ra khẩu hiệu \"Cách mạng hóa tư tưởng, Quần chúng hóa sinh hoạt, Kháng chiến hóa văn hóa\", Tố Hữu yêu cầu văn nghệ sỹ, sau ba năm kháng chiến, phải loại trừ hết những gì còn rơi rớt của cái gọi là \"tiểu tư sản\". Trong số đầu tiên của Tạp chí Văn Nghệ, Nguyễn Đình Thi gần như đã lặp lại 13/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính những gì Tố Hữu nói \"Bước vào năm thứ ba của cuộc kháng chiến, văn nghệ sỹ phải nhận rõ đường đi\" 16. Cho dù bị Nguyễn Đình Thi bỏ rơi, Nguyễn Hữu Đang vẫn cùng Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Tô Ngọc Vân, Văn Cao, Sỹ Ngọc tiếp tục tranh luận về dân chủ và tự do sáng tác. Nhiều văn nghệ sỹ kháng chiến khác cũng tự nhận thấy con đường của mình. Những đợt sinh hoạt chính trị này, từ tháng 7-1948, đã đẩy hàng loạt văn nghệ sỹ bỏ về thành vì không chấp nhận đường lối văn nghệ chủ trương phân chia giai cấp. Sau năm 1954 những người này lại đã tiếp tục đi tới Sài Gòn 17. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đặt Việt Nam trước một khúc quanh. Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Hoa năm 1949, mới thực sự đẩy số phận dân tộc Việt Nam bước hẳn vào con đường cộng sản. Mao đã giúp Hồ Chí Minh tiếp cận với Stalin, đồng thời viện trợ vũ khí và chuyên gia để Hồ Chí Minh tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch Biên giới năm 1950 là một chiến thắng quân sự có tầm cỡ chiến lược của quân đội Tướng Giáp. Nhưng, đồng thời, cũng từ năm 1950, biên giới phía Bắc đã được mở ra với phe xã hội chủ nghĩa và từ đây bỏ ngỏ để các \"nguyên lý cách mạng\" của Mao và Stalin mặc sức tràn sang. Đặc biệt, từ năm 1953, cung cách \"chỉnh huấn, chỉnh quân\" của Mao bắt đầu được áp dụng, đặt những người kháng chiến trong đó có các văn nghệ sỹ trong thế đương đầu với một cuộc \"khủng bố\" tinh thần khốc liệt. Nếu như đầu những năm 1950, theo Nguyên Ngọc, những người kháng chiến vẫn còn có thể hát Suối Mơ, Thiên Thai thì từ sau \"chỉnh huấn, chỉnh quân\", ở đâu cũng chỉ nói đến \"đấu tranh giai cấp\". Nguyên Ngọc nhớ lại \"Khi đó, trí thức phải tự coi mình như cục phân’ 18. Tôi hai mươi mốt tuổi chưa kịp gây ra khuyết điểm gì đành phải tự kiểm vì đã âm thầm mơ đến yêu đương, dục vọng\". Những văn nghệ sỹ đã nổi tiếng trước đó thì phải \"bới lông tìm vết\" trong chính các tác phẩm của mình. Hoài Thanh tự phê phán tác phẩm quan trọng nhất cuộc đời ông Thi Nhân Việt Nam. Nguyễn Tuân xin từ \"ba đứa con tinh thần\" Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Thiếu Quê Hương, Vang Bóng Một Thời. Thái độ này của các bạn văn đã khiến cho những người chính trực trong giới văn chương ngao ngán. trực trong giới văn chương ngao ngán. 14/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính 1953. Ngày 17-6-1953 người dân biểu tình tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Các nhà văn Đức phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và Nhà nước. Tháng 7-1954, ở Trung Quốc, Hồ Phong công bố bức thư ngỏ gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gọi chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Văn nghệ là \" lưỡi dao đâm vào óc các nhà văn cách mạng\". Tháng 10-1954, Trần Dần, Đỗ Nhuận và Hoàng Xuân Tùy được cử đi Trung Quốc viết lời bình cho phim tài liệu về Điện Biên Phủ. Họ ở lại Trung Quốc cho đến ngày 12-12-1954, trong thời gian đó, không khí yêu cầu cải cách dân chủ ở Trung Quốc được cho là có ảnh hưởng không ít đến Trần Dần và Đỗ Nhuận. Tháng 1-1955, ở Hungary, sáu mươi ba nhà văn lên tiếng phản đối chế độ độc tài. Trong khi đó, ngày 4-3-1955, Phòng Văn nghệ quân đội do Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức thảo luận phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Cuộc thảo luận có mặt Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Thơ cách mạng của Tố Hữu bị coi là \"nhỏ\" hơn thơ Tố Hữu ngày xưa. Tố Hữu còn bị phê phán sùng bái Hồ Chí Minh. Báo Văn Nghệ số 65 19 19 1955, rộng ra và chuyển sang nhiều báo khác. Hội Văn nghệ, dưới sự lãnh đạo của Tố Hữu, tổ chức hai buổi tọa đàm. Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông ca ngợi Việt Bắc, coi Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ kháng chiến. Hoàng Yến cho rằng thơ Tố Hữu ngày nay có nhiều đoạn giả tạo công thức. Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu thiếu chất sống thực tế, nhạt nhẽo, hời hợt và không đột phá được vào một khía cạnh nào của tâm hồn. Tháng 4-1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm ký bản \"Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá\", đòi quyền tự do sáng tác và yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội. Bản dự thảo sắp được thông qua, thì cuối năm 54, đầu 55, Phòng Văn nghệ quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính sách văn nghệ với sự có mặt của Tướng Nguyễn Chí Thanh. Trong buổi thảo luận, Trần Dần đòi trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, bỏ mọi \"chế độ quân sự hiện hành\" trong văn nghệ quân đội. \"Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản\" 20. 15/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Bị phê bình, Trần Dần viết đơn xin ra khỏi Đảng, xin giải ngũ đồng thời quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Khuê, con một gia đình Thiên Chúa giáo di cư, bất chấp sự phản đối của quân đội. Từ ngày 13-6- 1955, Trần Dần bị phạt \"giữ tại trại\" hơn ba tháng để kiểm thảo. Người vợ Công giáo, con của một gia đình tư sản, không thể nào xin được việc làm trên \"thiên đường miền Bắc\" 21 Tháng 1-1956, Hoàng Cầm, Lê Đạt cho xuất bản sách dạng tạp chí có tên là Giai Phẩm Mùa Xuân, đăng bài của Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán và bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần. Ngay lập tức, Giai phẩm bị tịch thu. Hội Văn nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Trần Dần bị kết án là \"đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối văn nghệ của Đảng\". Theo lệnh của Tố Hữu, Trần Dần và Tử Phác bị giam ba tháng tại Hỏa Lò, Trần Dần dùng dao lam cứa cổ tự tử. Tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp, hai người được thả. Ngày 7-3-1956, báo Văn Nghệ đăng một bài viết của Hoài Thanh có tựa đề \"Vạch trần Tính chất Phản động trong bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần\". Tháng 3-1956 tập thơ Việt Bắc vẫn được Giải Nhất Giải thưởng Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Dư luận văn nghệ sĩ bất bình về việc trao Giải thưởng Văn nghệ 1954-1955. Trong khi những tác phẩm có tiếng vang trong kháng chiến thì không được giải. Ban giám khảo \"tự chấm rất nhiều giải cho mình\", trong đó có nhiều tác phẩm chưa xứng đáng của Tố Hữu, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Trắc, Hồ Khải Đại,… Cũng trong thời gian đó, tại Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 24-2-1956, Khrushchev cho công bố \"các tội ác của Stalin\". Liên Xô phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị kết án và bị giết dưới thời Stalin. Chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô Phadeiev tự sát 22. Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát động phong trào \"Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng\". Chút ít không khí dân chủ xuất hiện. Tháng 9-1956, khi kiểm điểm những sai lầm trong cải cách ruộng đất, Hội nghị Trung ương 10 nhấn mạnh việc \"tăng cường mở rộng tự do dân chủ\". Trường Chinh, tác giả Đề Cương Văn Hóa Việt Nam, phải từ chức tổng bí thư. Người hùng Điện Biên Võ Nguyên Giáp được cử đứng ra \"xin lỗi nhân dân về những sai lầm trong cải cách\". 16/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Giữa lúc ấy, \"lãnh tụ\" của khuynh hướng đòi tự do, Nguyễn Hữu Đang, được giao tổ chức lớp học dân chủ mười tám ngày cho Hội Văn nghệ. Tại đây, các văn nghệ sĩ đã chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi \"thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sửa chữa\". Hoài Thanh viết bài \"Nhận lỗi tả khuynh trong phê bình Trần Dần\". Tháng 10-1956, Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam ra thông báo nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất Định Thắng. Nhưng ngày vui đã không kéo dài. Trước đó, ngày 29-8-1956, Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời đăng bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi. Báo Nhân Văn số 1 23, đã phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề nỗ lực mở rộng tự do, dân chủ. Phan Khôi là một chí sỹ chủ trương đấu tranh bất bạo động, gắn bó cuộc đời hoạt động của mình với phong trào Duy Tân. Năm 1925, khi Phan Châu Trinh về Việt Nam, Phan Khôi được coi như là người đón nhận \"di sản tinh thần\" cụ Phan. Cùng với Trương Tửu, Phan Khôi phê phán bệnh sùng bái cá nhân. Ông phê phán đích danh tác phong lãnh đạo văn nghệ quan liêu, hách dịch, bè phái của Trường Chinh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi. Phan Khôi còn chỉ trích việc Hồ Chí Minh viết truyện mẫu định cho các nhà văn viết theo. Đây là giai đoạn mà theo Trương Tửu \"Một số văn nghệ sĩ non gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán và uất ức… Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị hành hạ, bị gạt sang một bên\" 24. Ngày 20-10-1956, báo Trăm Hoa bộ mới do nhà thơ Nguyễn Bính làm chủ nhiệm kiêm chủ bút ra số 1. Trong thời gian tồn tại của mình, với mười một số, Trăm Hoa đã đăng \"Vì những sai lầm nghiêm trọng cần phải xét lại toàn bộ Giải thưởng văn học 1954-1955\", bài \"Chúng tôi đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu\". Trăm Hoa cũng cho công bố Thông báo của Hội nghị Trung ương 10 về sai lầm trong Cải cách ruộng đất và viết bài \"Để phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của nhà nước\",… 17/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Tháng 11-1956, ở trong nước người dân ở vùng Công giáo Quỳnh Lưu, Nghệ An, tổ chức bạo loạn. Ở Hungary, chính phủ của Thủ tướng Nagy tuyên bố Hungary trung lập. Liên Xô đưa quân sang, các phong trào dân chủ bị dập tắt. Ngày 20-11-1956, Nhân Văn xuất bản số 5 Lê Đạt với bút danh Người quan sát viết Bài Học Ba Lan Và Hungary; trong bài Hiến Pháp Việt Nam Năm 1946 Và Hiến Pháp Trung Hoa Bảo Đảm Tự do Dân Chủ Thế Nào, Nguyễn Hữu Đang viết \"Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và Hungary là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?\" 25. Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký \"Sắc lệnh về chế độ báo chí\", buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp 26. Ngay trong ngày báo Nhân Dân công bố sắc lệnh của Hồ Chí Minh, 15-12-1956, tờ Nhân Văn số 6 bị giữ lại ở nhà in. Ngày 18-12- 1956, Ủy ban Thành phố Hà Nội có quyết định ngưng phát hành báo Nhân Văn, Giai Phẩm cùng các ấn phẩm khác của nhóm, đồng thời Nhà Xuất bản Minh Đức bị đóng cửa. Tháng 1-1957, Trăm Hoa bị đình bản. Một chiến dịch báo chí cũng được tung ra để hạ uy tín các tờ báo và những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Cuối tháng 12-1956 Minh Đức vẫn cho ra tập san Tự Do Diễn Đàn và ngay lập tức ấn phẩm này bị cấm. Tập san bị cấm có các bài \"Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh Văn nghệ\" của Nguyễn Hữu Đang, \"Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích Chính sách\" của Phan Ngọc, \"Sinh hoạt Văn hóa\" của Trương Tửu và Trần Đức Thảo. Đặc biệt, tờ Tự Do Diễn Đàn đã cho công bố bản tham luận gây chấn động Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường \"Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, Xây dựng Quan điểm Lãnh đạo\". 27. Đầu năm 1957, Minh Đức còn xuất bản Sách Tết, với gần đủ mặt nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm. Ngày 20-2-1957, khai mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, Trường Chinh kêu gọi \"đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai Phẩm\". Ngày 28-2-1957, \"Đại hội bế mạc. Cụ Hồ đến. Nhiều công an quá. Mấy công an đi theo dõi mấy văn nghệ sĩ, nghe họ nói đổng về báo cáo là có kẻ phá hoại. Nhao cả lên\" 28. Thời gian này, Trường Chinh vừa bị mất chức tổng bí thư. Sau lời kêu gọi của ông, \"bọn Nhân 18/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Văn Giai Phẩm\" vẫn nhiều người được bầu vào ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và các hội thành viên. Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông phát động chiến dịch \"chống phái hữu\". Nhiều nhà văn bị phê phán như Trần Xí Hà, Đặng Thác; nữ nhà văn Đinh Linh, người được Giải thưởng văn học Stalin, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc và bị bắt 29. Cũng trong thời gian ấy, nhân chuyến thăm Liên Xô, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh. Khi ông trở về, Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm đấu tranh \"chống phái hữu\". Tờ Nhân Dân xuất hiện nhiều bài viết \"chống phái hữu\" ký tên Trần Lực, một bút danh của Hồ Chí Minh 30. Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác Văn nghệ 31. Cuối tháng 1-1958, Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ Nhất được tổ chức tại ấp Thái Hà 32 với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự. Từ 3-3 đến 14-4-1958, cũng tại ấp Thái Hà, diễn ra Lớp học đấu tranh tư tưởng lần Hai với 304 cán bộ văn hóa. Theo Đại tá Thái Kế Toại \"Hai lớp học này đã dùng thủ đoạn đấu tố và áp lực tâm lý tập thể, vu cáo, bịa đặt tội lỗi cho những thành viên nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Kết quả là không cần điều tra người ta đã có đầy đủ tội trạng của các nhân vật để quyết định bắt họ, kỷ luật họ\". luật họ\". 1958, trước Hội nghị Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Tố Hữu, người chủ trì chiến dịch ấp Thái Hà đã \"tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm\" 33. Bài \"tổng kết\" của Tố Hữu được ví như một \"cáo trạng\", như một \"nhát gươm chính thức kết liễu số phận Nhân Văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn học ghê gớm của một tên đao phủ\" 34. Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố Hữu, \"800 văn nghệ sỹ\" đã ký vào một nghị quyết \"hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm\". Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội Nhà văn ra thông báo \"kỷ luật nhóm Nhân Văn\" 35. Số văn nghệ sỹ, gọi là \"tham gia Nhân Văn Giai Phẩm\" tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, khoảng 170 người 36. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn \"số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn\" 37. 19/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Người nặng thì bị đi tù, nhẹ hơn thì đi cải tạo lao động trong vòng từ ba đến sáu tháng tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã. Một số văn nghệ sỹ phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực… Đầu năm 1961, Phùng Cung bị bắt, do \"Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất mãn, chống đối, phản động\". Lê Đạt gọi thời kỳ \"hậu Nhân Văn\" là những ngày \"khôn ngoan không dám làm người\". Phần lớn các nạn nhân, vốn là những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình 38. Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn. Theo Nguyên Ngọc \"Sau một đêm, Nguyên Hồng vứt hết chức tước, tem phiếu, đưa gia đình về định cư ở vùng Yên Thế. Ông nói tao không chơi được với chúng mày nữa\". Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê Thanh Hóa. Từ đó, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim đi thồ đá, người vợ hiền của ông vừa cày hai sào ruộng vừa xay bột làm bánh. Ba người con trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ ba giờ sáng, kéo ba chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách hai cây số bán rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ bảy cây số đi học. Vì lý lịch cha mẹ mà một người con của Hữu Loan thi đạt điểm du học nước ngoài vẫn không được đi, những người con khác của ông cũng không ai được vào đại học. Tố Hữu gọi Văn Cao, tác giả của Quốc Ca, là một đảng viên mang \"chủ nghĩa cá nhân\", \"chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng chính trị đối địch và đường lối văn nghệ tư sản trụy lạc, đã câu kết và tích cực giúp sức cho bọn phá hoại hoạt động, làm tay trong’ cho chúng\" 39. Tháng 11-1959, Văn Cao \"được phân công dịch sách tại garage Hội Nhà văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực\". Năm 1960, có hai lần ông bị đưa đi cải tạo lao động tại khu gang thép Thái Nguyên, tháng 8 ốm nặng, được về. Từ đó, sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống\" 40. \"Văn Cao bị một ám ảnh là luôn luôn thấy có người theo dõi. Tâm trạng bệnh tật. Càng ngày càng bất mãn\" 41. Ngày 18-10-1959, Nguyễn Huy Tưởng gặp Văn Cao \"Khổ vì tập Vạch Mặt Nhân Văn nêu tên Văn Cao từ đầu chí cuối. Bị thành kiến. Trong khi đó thì ốm, chỗ dạ 20/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính dày bị mổ thỉnh thoảng lại đau... Phải nuôi mẹ già và một em. Khổ nhất là có một đứa con mới đẻ, lao. Tốn vào đó. Không đi đâu được. Rơm rớm nước mắt nói vợ lại chửa. Vẫn phải đi làm để nuôi thân. Văn Cao phải ở nhà ẵm con. Bấn không đi đâu được. Lo cái chết trước mặt. Thấy có nhiều khả năng để làm việc, và thấy phải làm việc, làm một cái gì. Suốt ngày đánh đàn. Nhưng khuya, vợ hét\" 42. Tác giả của những câu thơ Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét./ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu…\", ông Phùng Quán, đã phải mất hai thập kỷ sống bằng \"cá trộm, văn chui, rượu lủi\", có lúc đã định tự sát, không dám làm đám cưới vì không có tiền và vì… không ai dám in tên một \"tên Nhân Văn\" lên… thiệp cưới. Nguyễn Hữu Đang được coi là người Việt Nam duy nhất không hề nếm mùi \"chiến tranh chống Mỹ\". Ông bị bắt từ năm 1958, bị đưa lên một nhà tù ở tận Hà Giang cho đến năm 1973. Năm 1930, Nguyễn Hữu Đang cũng từng bị thực dân Pháp bắt khi hoạt động trong Hội Sinh viên thị xã Thái Bình, một tổ chức của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội 43. Khi đó, ông thoát án giam vì chưa tới tuổi thành niên. Nhưng sau \"Cách mạng\", ông đã bị tù đày không một ngày ân xá. Năm 1973 ra tù, Nguyễn Hữu Đang bị đưa trở lại quê cũ Thái Bình, làm ruộng. Giữa thập niên 1985, ông lại bị bắt và bị tạm giam bốn tháng vì \"tự tiện sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi\" 44. Nguyễn Hữu Đang - người xây đài Độc lập, để trong ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đứng trước nhân dân tuyên ngôn về tự do - kể từ khi được tạm tha, được \"sống trong trại lợn của hợp tác xã\". \"Tội\" của Nguyễn Hữu Đang là đã đích thân bán từng bộ áo quần lấy tiền để nhóm Nhân Văn ra báo 45 đăng những ý kiến tâm huyết đề nghị Đảng xây dựng một nền pháp trị thay cho đảng trị; đề nghị nhà nước \"cần phải chính quy hơn\" 46. Thời hoạt động công khai, Nguyễn Hữu Đang từng \"ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà Nội giàu có nào, vay vàng, tiền cho cách mạng mà những người trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì\" 47. Nguyễn Hữu Đang của năm 1988, khi Phùng Quán đến Thái 21/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Bình thăm, không vợ, không con, không cửa không nhà, rách rưới và tiều tụy 48. Vụ \"Nhân Văn Giai Phẩm\" từ lâu bị coi như là một vụ án văn chương và gần như chỉ có số phận các nạn nhân nhà văn là được quan tâm. Trong khi đó, theo Đại tá Thái Kế Toại \"Các đợt học tập chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy. Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài Thái Vũ, Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ\". Trong thập niên 1950, đại học Việt Nam có được những trí thức ưu tú nhất của nền giáo dục Pháp. Giáo sư Hoàng Tụy đang dạy toán ở Đà Nẵng đã ra Việt Bắc chỉ vì nghe ở đó có nhà toán học Lê Văn Thêm bỏ Pháp về Việt Nam theo kháng chiến. Nhiều sinh viên, giảng viên đại học chỉ mong được nhìn thấy những trí thức tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo. Mô hình tự chủ đại học được Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Trương Tửu chủ trương từ rất sớm. Người đứng đầu ngành đại học lúc đó là Tạ Quang Bửu muốn xây dựng một nền đại học tạo cơ hội như nhau cho mọi người nhưng từ chối thêm điểm vào đại học cho giai cấp công, nông. Quan điểm của ông bị phê phán là \"tinh hoa chủ nghĩa\". Chỉ vì ủng hộ những quan điểm này mà Giáo sư Hoàng Tụy đã bị kiểm điểm tới…tám mươi cuộc. Sau những cuộc đấu tố liên miên đó, nhiều giáo sư như Trần Đức Thảo, Lê Văn Thêm đã luôn bị tự kỷ ám thị. Đêm đêm, Giáo sư Trần Đức Thảo vẫn nằm dưới gậm giường vì sợ. Còn Nguyễn Mạnh Tường thì từ năm 1958 không những bị tước hết mọi chức vụ mà hơn ba mươi lăm năm, vị luật sư tài ba có hai bằng tiến sỹ Pháp ấy và gia đình đã phải sống trong đói khát. Năm hai mươi hai tuổi, Nguyễn Mạnh Tường đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật tại Đại học Montpellier. Một tháng sau, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn chương. Khi Nguyễn Mạnh Tường \"vinh quy\", người Pháp đã gặp và gợi ý đưa ông vào làm thượng thư trong Triều Bảo Đại nhưng ông từ chối. 22/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Những người như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo có thể đã trở thành những trí thức được sủng ái nếu như không lên tiếng phê bình những sai lầm của chế độ 49. Lúc còn học ở trường Albert Sarraut, Trần Đức Thảo đã để lại không ít huyền thoại về sự thông minh. Ông đỗ tú tài triết học năm 1935, và năm sau ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale Superieure của Pháp. Trần Đức Thảo tốt nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại Pháp năm 1942, khi mới hai mươi lăm tuổi. Ông được nhiều thế hệ trí thức Việt Nam ngưỡng mộ từ huyền thoại \"kết thúc cuộc tranh luận với nhà hiện sinh Jean-Paul Sartre trên thế thắng\". Sau Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh đã tìm gặp và đề nghị Trần Đức Thảo về Việt Nam. Cuối 1951, sau khi lấy xong tiến sỹ, vì say mê chủ nghĩa Marx, Trần Đức Thảo đã về nước theo hành trình Paris - London - Praha - Moscow - Bắc Kinh - Tân Trào. Thế nhưng, khi cùng tham gia viết về dân chủ trên báo Nhân Văn, Trần Đức Thảo đã bị Tố Hữu xếp chung với \"bọn gián điệp, phản động\" 50. Báo Nhân Dân sau đó đã đăng nhiều bài báo bôi nhọ ông 51. Cho dù đã phải \"khấu đầu tạ tội\" 52 trên báo Nhân Dân, Trần Đức Thảo vẫn bị \"đưa ra khỏi biên chế\" nhà nước, phải \"cải tạo tư tưởng\" bằng nhiều tháng đi lao động ở Tuyên Quang, phải đi chăn bò ở nông trường Ba Vì. Đã có những lúc triết gia nổi tiếng Paris này phải đi vác từng bao bột mì để nhận lại vài ổ bánh mà sống 53. Những người ưu tú nhất bị đặt ra ngoài cuộc như Lê Văn Thiêm, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo. Con cái các nhà tư sản, địa chủ, con cái của những người bị chế độ coi là có vấn đề đều không được vào đại học. Nhưng nền giáo dục sau Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ chịu những tổn thất ấy. Sau vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, nhiều thế hệ sinh viên, học sinh Việt Nam đã được dạy dỗ trong một nền giáo dục gần như chỉ biết vâng lời. Nền văn học, nghệ thuật, báo chí và tinh thần tự do vừa mới định hình hồi cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940, đang khao khát trưởng thành thì nhận được \"vết chém ngang lưng\" 54. Chính trị và các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa bắt đầu ngự trị các chương trình giảng dạy văn chương, nghệ thuật. Những giá trị căn bản của người Việt Nam không chỉ bị phá vỡ ở \"thượng tầng\", từ trong từng ngõ ngách làng xã, trong mỗi gia đình cũng đã nhận được biết bao bi kịch. 23/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Miền Nam \"giải phóng\" Thật khó có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra cho miền Bắc Việt Nam nếu như không có sự kiện 30-4-1975. Cuộc chiến được nói là để giải phóng miền Nam đã thực sự mở mắt cho người dân miền Bắc. Tuy chính quyền miền Nam tìm mọi cách để hạn chế báo chí đối lập, nhưng Sài Gòn trước ngày 30-4 vẫn là một nơi có luật pháp để phục vụ quyền tự do ngôn luận. Những tờ tạp chí in bốn màu, những bộ tiểu thuyết diễm tình, đồng hồ Seiko, máy nghe nhạc cassette, akai, tivi, tủ lạnh và những con búp bê biết khóc được các anh bộ đội đưa về đã đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc. Miền Nam bắt đầu có vô tuyến truyền hình từ năm 1965, trước miền Bắc hơn một thập niên. Nhưng điều quan trọng là các chương trình phát thanh, truyền hình ở miền Nam được phát đi một cách đa dạng và phong phú. Công cuộc giải phóng nào cũng phải mất thời gian. Những chuyển động của điện ảnh, sân khấu, văn chương, báo chí không xuất hiện ngay sau 1975, nhưng nó âm ỉ từ bên trong, thay đổi dần dần và căn bản. Có lẽ vì sự thay đổi chế độ ở Sài Gòn trong ngày 30-4-1975 được tiến hành bằng những chiếc tăng T54 thay vì bằng một hiệp định đình chiến như Hà Nội vào năm 1954; cũng có lẽ bởi người Sài Gòn đã học được bài học \"Nhân Văn Giai Phẩm\"; nên, kể từ ngày 30-4-1975, không hề có bất cứ một nhà xuất bản, một tờ báo tư nhân nào còn hoạt động, cho dù ở Sài Gòn trước đó có hơn hai mươi tờ nhật báo, hàng trăm tạp chí và nhà xuất bản. Một số lớn văn nghệ sỹ, đội ngũ báo chí Sài Gòn kịp di tản trước khi quân đội miền Bắc kéo vào. Số ở lại cho dù không phải đi cải tạo thì sự nghiệp của nhiều người cũng coi như chấm dứt. Ngày 23-4-1975, Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư điện vào Trung ương Cục \"Đề nghị các anh cho chuẩn bị khẩn trương để kịp ra báo Cờ Giải Phóng ngay từ đầu khi mới giải phóng Sài Gòn\" 55. Tuy tờ Cờ Giải Phóng sau đó không ra kịp ngày \"Sài Gòn giải phóng\". Nhưng, không chỉ có hai phát thanh viên mặc quân phục xuất hiện trên đài truyền hình vào tối 1-5-1975, một thế hệ những người viết mặc áo lính, theo các cánh quân từ R kéo về hoặc từ miền Bắc lần lượt được điều vào, đã \"cách mạng triệt để\" nền báo chí Sài Gòn, nền báo chí đã có tờ báo đầu tiên từ 110 năm trước đó. 24/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Ngày 1-5-1975, ông Võ Văn Kiệt triệu tập một nhóm cán bộ tuyên huấn, báo chí gồm Tô Hòa, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Thành Lê,… đến trường Petrus Ký, nơi Đảng ủy Đặc biệt của Ủy ban Quân quản Sài Gòn đang tạm đóng. Cuộc họp đi đến thống nhất, Đảng bộ Thành phố sẽ ra một tờ báo lấy tên là Sài Gòn Giải Phóng. Tuyên huấn Trung ương Cục tạm thời làm \"chủ quản\". Lê Điền, một cán bộ của báo Nhân Dân, làm tổng biên tập. Nguyễn Thành Lê phụ trách nội dung. Ngày 5-5-1975, Sài Gòn Giải Phóng ra số đầu tiên, chủ yếu đăng lại những mệnh lệnh của Ủy ban Quân quản. Sau mười hai số báo đầu tiên, Sài Gòn Giải Phóng được giao về cho Thành ủy. Tổng biên tập thứ hai của báo là ông Võ Nhân Lý, thường gọi là Bảy Lý, một người tâm phúc của ông Nguyễn Văn Linh, có nhiều năm làm phó cho ông Linh ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục. Ngoài truyền hình và phát thanh, báo chí cách mạng xuất bản tại Sài Gòn ngay sau 30-4-1975 còn huấn Trung ương Cục. Ngoài truyền hình và phát thanh, báo chí cách mạng xuất bản tại Sài Gòn ngay sau 30-4-1975 còn 7-1975, Tuổi Trẻ, 2-9-1975. Đội ngũ văn nghệ sỹ, báo chí từ Việt Bắc trở về Hà Nội năm 1954 và tạo ra một phong trào \"Nhân Văn\" gồm những người trở về từ một cuộc chiến tranh giành độc lập, tiếp tục khát vọng dân chủ tự do. Còn đội ngũ từ R hoặc từ miền Bắc trở về Nam năm 1975 đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx-Lenin. Đúng như Tố Hữu viết trong công điện ngày 23- 4-1975, họ là một thế hệ \"cán bộ viết báo\" 56. Về Sài Gòn, nhiều người trong số những \"cán bộ viết báo\" ấy tiếp tục làm báo với tư thế của những người chiến thắng. Những người chiến thắng chưa muốn chấm dứt cuộc chiến \"ai thắng ai\" với \"ngụy quân, ngụy quyền\", với \"tư sản mại bản\", và các \"tàn dư của chế độ cũ\". Nhiều báo vẫn lấy những bài vở được sản xuất từ bộ máy tuyên huấn R 57. Sau khi các tờ báo quốc doanh đã hoạt động ổn định, Bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Võ Văn Kiệt triệu tập một cuộc họp, nêu yêu cầu \"Thành phố cần phải cho ra một số tờ báo tư nhân\". Theo ông Tô Hòa, người phụ trách nội dung từ số 13 của tờ Sài Gòn Giải Phóng \"Kể từ khi từ miền Bắc trở về, tôi chưa từng nghĩ là mình lại có báo tư nhân, nhưng tư tưởng của Sáu Dân là như vậy. Trung ương Cục và Thành ủy bàn tới, bàn lui cuối cùng quyết định sẽ cho ra ba tờ báo tư nhân một tờ sẽ giao cho nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc 25/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Nhuận, một tờ giao cho ông Nam Đình, tờ thứ ba lúc bấy giờ chưa biết giao cho ai cả\" 58. Cho tới lúc đó, ông Võ Văn Kiệt và những đồng chí khác của ông như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chưa thực sự làm việc trong môi trường xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp của họ là vận hành cuộc chiến tranh ở miền Nam cả bằng đấu tranh võ trang và đấu tranh chính trị, bao gồm cả những công cụ như biểu tình, báo chí. Họ hiểu khá rõ sự khác biệt giữa các nhóm dân chúng miền Nam đối với chế độ mới và nhận thức được vai trò của báo chí trong việc thuyết phục các tầng lớp dân chúng ủng hộ công cuộc của những người cách mạng. Theo ông Võ Văn Kiệt \"Ý tưởng cho ra báo tư nhân được anh Lê Đức Thọ và anh Lê Duẩn ủng hộ\". Thế nhưng phía \"tư nhân\" lại không nồng nhiệt đón nhận sáng kiến này. Nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba vốn là những nghị sỹ đối lập với chính quyền Sài Gòn thì nhận lời. Trong khi đó Nam Đình, một \"Việt Cộng nằm vùng\", thì từ chối. Theo ông Tô Hòa \"Nam Đình giải thích tôi, chính trị không biết, làm báo kiểu này trên đe dưới búa thôi!\". Ông Tô Hòa nhận xét \"Nam Đình chỉ cần nói thế đủ thấy ông ta hiểu chế độ mới và rất cáo già về chính trị\". Ba tháng sau, chính quyền thuyết phục được hai nhóm nhân sỹ nhận giấy phép ra báo tư nhân Nhóm linh mục khuynh tả Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, làm tờ Đối Diện trước 1975, nhận Giấy phép số 01 59, ngày 4-7-1975, ra tờ bán nguyệt san Đứng Dậy. Cùng ngày 4-7- 1975, nhóm linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh nhận Giấy phép số 02, ra tờ Công Giáo & Dân Tộc. Phải tới ngày 22-7-1975, nhóm dân biểu đối lập Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, mới nhận Giấy phép số 03 ra tờ Tin Sáng. Ông Hồ Ngọc Nhuận nhớ lại \"Tôi và Ngô Công Đức gặp nhau sớm. Chúng tôi cũng rất bối rối vì tình hình mới chưa hiểu sẽ như thế nào. Nhưng, đích thân ông Võ Văn Kiệt gặp nói Anh Sáu Thọ cũng rất sốt ruột\". Theo ông Nhuận \"Khi tình hình chưa ổn định, chính quyền muốn có một tờ báo được lòng quần chúng mà thân mấy ổng. Tôi hỏi làm thì làm như thế nào? Trần Bạch Đằng bảo làm y như cũ\". Đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Văn Giàu \"Các anh làm báo cộng sản như… cộng sản\". Ngay từ những ngày đầu, Đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Văn Giàu \"Các anh làm báo cộng sản như… cộng sản\". Ngay từ những ngày đầu, 1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong \"Đoàn đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp 26/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính thương Thống Nhất\". Khi trở về, trong bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết \"Chúng tôi tin rằng, độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội\" 60. Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ có thể hiểu được một cách đầy đủ bằng sự trải nghiệm. Nếu nhà văn Pháp có khuynh hướng cộng sản, A. Gide 1869-1951, năm 1936 không tới Liên Xô thì có thể ông đã không viết sách chỉ trích Liên Xô. Nếu Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Lan không làm báo sau 1975 thì không thể hiểu đầy đủ \"tự do báo chí\" dưới thời Cộng sản. Trước năm 1975, trong mười năm, có 360 lần tờ Tin Sáng bị tịch thu báo, sáu lần bị đóng cửa. Nhưng, cho dù hà khắc, Sài Gòn vẫn là một chế độ có luật pháp. Những bài báo có khuynh hướng ủng hộ Mặt trận Giải phóng và chống Mỹ có thể bị kiểm duyệt. Nhưng một nhà báo thường viết cho không chỉ một tờ và các chủ báo, đặc biệt là các chủ báo chính trị như Hồ Ngọc Nhuận, thường có đôi ba tờ báo, nên chính quyền thu tờ này thì viết lên tờ kia phản đối. Năm 1969, khi Hồ Chí Minh từ trần, ngay giữa Sài Gòn, tờ Đất Nước dám ra một số riêng cho \"người nằm xuống\", với tất cả các bài viết trong đó đều nói về Hồ Chí Minh, \"kẻ thù\" của chính quyền miền Nam. Sau Hiệp định Paris, linh mục Trương Bá Cần còn có thể cho đăng trên tờ Đối Diện bài viết \"Hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc\". Còn Giáo sư Nguyễn Văn Trung thì viết trên tờ Đất Nước \"Cộng sản, người anh em của tôi\". Tháng 3-1975, trên tờ Đối Diện, hai vị Linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan dám vẽ bản đồ Việt Nam, đánh dấu những nơi đã nằm trong tay quân miền Bắc rồi chú thích \"Này anh em ơi/ Quốc gia đến ngày giải phóng\" 61. \"Giải phóng\" xong, đội ngũ làm báo từ trước 30-4-1975 bắt đầu tan tác một số kịp di tản, một số bị đưa đi cải tạo hoặc bị bắt do tham gia các \"tổ chức phản động\", số có may mắn được làm báo như Đối Diện, Tin Sáng chỉ chiếm một phần rất nhỏ nhoi. Những người làm báo chí, phát thanh, truyền hình quân đội như Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Yên phải đi cải tạo từ mười đến mười ba năm. Nhà báo Trần Tuấn Nhậm, một trong những người chủ trương làm tờ Trình Bầy, năm 1971, khi ra tranh cử nghị sỹ đã dùng khẩu hiệu \"Chống Mỹ cứu nước\" với tranh minh hoạ hình Nixon vẽ râu Hitler. Năm 1979, ông Nhậm vượt biên nhưng bị bắt, và sau đó chết trong trại giam Bến Sắn. Nhà báo Nguyễn Khắc Nhân, thư ký tờ Tiền Tuyến, chỉ phải đi cải tạo một năm nhờ có anh rể là Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Trần 27/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Trọng Tân. Nhưng khi vừa từ trại về, ông Nguyễn Khắc Nhân đã được anh rể lấy tình thân nói thẳng \"Cậu làm tờ báo phản động nhất miền Nam, cậu không thể nào làm báo dưới chế độ này được\". Chính quyền mới không có chế độ kiểm duyệt báo chí. Thậm chí khi Tin Sáng làm công văn xin Ban Tuyên huấn đưa người tới viết xã luận và duyệt bài, chính quyền cũng không thèm cử người. Trong khi đó, Thành ủy lại còn \"chăm sóc về vật chất rộng rãi hơn\" so với nhiều ngành nghề hoạt động khác \"Riêng về xăng, ta đã cung cấp cho họ mỗi quý hơn lít năm 1979, và lít năm 1980\" 62. Nhưng, trong nội bộ tờ báo, an ninh đã cài vào không ít đặc tình 63. Trong một báo cáo gửi \"anh Sáu Dân, anh Chín Đào\", Văn phòng Thành ủy đã yêu cầu \"Cơ quan an ninh cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ chặt chẽ hơn và tinh tế hơn nữa, để nắm chắc mọi hoạt động của các đối tượng trọng điểm trong Tin Sáng\" 64. Nhiều bài viết của tờ báo này bị phát hiện ngay khi chưa kịp lên khuôn. Tư Trời Biển Ngô Công Đức trước 1975 dám viết bài đả kích tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Cũng Tư Trời Biển ấy, năm 1979, chỉ định viết bài cho báo Tết nhân danh bà hàng xóm ước mong \"Ngày mồng Một ra đường được gặp một nụ cười xuân, Nụ cười xuân nở trên môi anh cảnh sát\" 65, đã lập tức bị \"đặc tình\" tố cáo. Ngày 11-1-1979, Phòng An ninh Bảo vệ Cơ quan Văn hóa PA 25 đã gửi công văn khẩn lên Thành ủy, \"yêu cầu xử lý\" 66 Tư Trời Biển vì cho rằng bài báo ám chỉ \"xã hội ngày nay mất cả nụ cười\". Năm 1978 tờ Đứng Dậy phải đóng cửa 67. Cuộc chơi báo tư nhân còn kéo dài tới năm 1981. Nhưng, Hồ Ngọc Nhuận thừa nhận không làm báo ở đâu căng thẳng như làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Khác với bán nguyệt san Đứng Dậy, Tin Sáng là tờ nhật báo có lượng độc giả lớn nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh lúc Khác với bán nguyệt san Đứng Dậy, Tin Sáng là tờ nhật báo có lượng độc giả lớn nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh lúc 1981, tại Hội nghị Công tác Tư tưởng toàn quốc, Lê Đức Thọ nêu một số dấu hiệu đáng lo trên tờ Tin Sáng. Ngày 23-4-1981, Văn phòng Thành ủy dự thảo một bản báo cáo để ông Võ Văn Kiệt gửi Trung ương 68. Cho đến lúc này, ông Võ Văn Kiệt và Thành ủy vẫn muốn \"tiếp tục duy trì tờ Tin Sáng với bề ngoài 28/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính như hiện nay để phục vụ một cách có lợi nhất cho yêu cầu chính trị của ta nhằm tuyên truyền tác động một cách có hiệu quả vào một số đối tượng quần chúng mà một tờ báo Đảng công khai thâm nhập vào khó hơn, ít tác dụng hơn\" 69. Tuy nhiên, ngay trong báo cáo ngày 23-4-1981, Thành ủy đã lo rằng \"Hoạt động của họ bộc lộ ý thức gây ảnh hưởng, tạo thế chính trị trong trí thức, nhân sĩ, Việt kiều và cả trong một số cán bộ trí thức của ta\". Cũng trong năm 1981, lực lượng Công đoàn Đoàn kết liên tục tổ chức biểu tình ở Ba Lan, cho dù quân đội Ba Lan đã bỏ tù hàng nghìn người trong đó có Lech Walesa và thiết quân luật trên toàn quốc. Sự kiện Công đoàn Đoàn kết đã đặt Hà Nội trong một sự cảnh giác cao độ hơn. Thường vụ Thành ủy sợ rằng \"Nếu có tình hình đột biến do địch gây ra, thì Tin Sáng có thể gây tác hại, vì những người cầm đầu này chưa phải là người đã nhập cuộc với chế độ ta, tuy họ có thể viết nhiều bài ca ngợi chế độ, ca ngợi chủ nghĩa xã hội\" 70. Tháng 6-1981, ông Võ Văn Kiệt đi Hà Nội. Sau khi gặp trực tiếp Tố Hữu và ông Trường Chinh, ông Kiệt nhận rõ \"thái độ với Tin Sáng\" của Trung ương là rõ ràng và ý kiến \"chấm dứt hoạt động Tin Sáng\" của ông Trường Chinh phải được hiểu là một quyết định thay vì một lời gợi ý. Sáng sớm ngày 29-6-1981, ông Võ Văn Kiệt cho mời ban lãnh đạo Tin Sáng lên gặp. Ngô Công Đức và Dương Văn Ba đi. Ông Kiệt nói ngắn gọn \"Các anh ở Hà Nội có ý là Tin Sáng nên ngưng. Nhưng, ngưng ngay hay kéo dài thêm một tháng để chuẩn bị dư luận thì các anh Tin Sáng cho ý kiến\". Cả Dương Văn Ba và Ngô Công Đức lập tức đồng ý ngưng ngay. Hồ Ngọc Nhuận khi nghe báo lại cũng tán thành. Sau gần sáu năm làm báo cộng sản cả ba đã vô cùng mệt mỏi. Trong một hội nghị cán bộ, diễn ra ngay trong sáng 29-6-1981, sau khi thừa nhận những đóng góp của Tin Sáng, ông Võ Văn Kiệt giải thích \"Chúng ta đã xác định kinh tế còn năm thành phần, nhưng văn hóa chỉ có một là văn hóa dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Đã đến lúc tất cả những tiếng nói đều phải là tiếng nói yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội để chiến đấu và chiến thắng, không có tiếng nói khác được\" 71. Trong \"Thư gửi bạn đọc\", đăng trong số báo \"hoàn thành nhiệm vụ\" ra ngày 30-6-1981, Ngô Công Đức viết \"Chia tay, bạn đọc cũng như anh chị em Tin Sáng đều có những ngậm ngùi của tình cảm. Nhưng chia tay ở đây để sẽ còn gặp lại ở một vị trí mới, trong cái chiến tuyến chung của tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta\" 72. Trong các \"công điện mật\" trao đổi giữa Thường vụ Thành ủy và Ban Bí thư sau 29/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính ngày 29-6-1981, chính quyền tỏ ra hài lòng với phản ứng của những người làm Tin Sáng 73. Tờ báo bị đóng cửa nhưng đội ngũ nhà báo giàu kinh nghiệm ở đó đã được ông Võ Văn Kiệt thu xếp đưa về các tờ báo của Thành phố như Tuổi Trẻ, Phụ Nữ và cả tờ Sài Gòn Giải Phóng. Họ đã trở thành nòng cốt trong việc tạo ra một môi trường báo chí thực sự trong các tờ báo của Sài Gòn, đặc biệt là tờ Tuổi Trẻ 74. Trước đó, trong văn học, nghệ thuật cũng đã âm thầm chuyển động. Trong những thời khắc bị đưa tới tận cùng, lịch sử, tự thân nó, lại thai nghén những nhu cầu thay đổi. Cuối thập niên 1970 trí thức, văn nghệ sỹ miền Bắc bắt đầu suy ngẫm về những giá trị mà họ có thể tiếp cận ở miền Nam, qua sách báo, tivi, tủ lạnh. Trong khi tại Sài Gòn, Vũ Hạnh, Trần Trọng Đăng Đàn, Thạch Phương, Trần Văn Giàu… 75 viết sách, viết báo, lăng mạ văn nghệ sỹ miền Nam thì ở miền Bắc, thanh niên bắt đầu tìm đọc các tác phẩm của họ. Từ trước khi chiến tranh kết thúc, nhiều nhà văn miền Bắc đã thay đổi cách nhìn hiện thực và có không ít người cảm thấy xấu hổ với những trang viết của mình. Năm 1969, khi viết Dấu Chân Người Lính, thông qua bi kịch của một nhân vật là đại đội trưởng Việt Cộng yêu một phụ nữ từng có chồng là \"lính ngụy\", Nguyễn Minh Châu đã nhận ra, có những vùng \"đất giải phóng\" nhưng con người vẫn không được giải phóng. Năm 1972, khi viết Lửa Từ Những Ngôi Nhà, Nguyễn Minh Châu cảnh báo một người hùng trong chiến tranh, khi trở về có thể thành người đốn mạt! Cũng trong năm 1972, Hoàng Cát viết Cây Táo Ông Lành; Nguyễn Đỗ Phú viết Một Đêm Đợi Tàu, đưa ra một cách tiếp cận khác về chiến tranh. Năm 1974, Ngô Văn Phú có Sẹo Đất, Vũ Tú Nam có Cảm Hứng, Nguyễn Khải có Đối Mặt và đặc biệt Phạm Tiến Duật có Vòng Trắng, với những câu thơ mô tả chiến tranh thật hơn \"Khói bom lên trời thành những vòng đen/ Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng/ Tôi với bạn tôi đi trong im lặng/ Khăn tang trên đầu như một số không\". Ở thời điểm này, những tác phẩm đó đã bị coi là có \"không khí nhân văn mới\". Cách mô tả nông thôn miền Bắc qua câu chuyện của hai người lính trong Một Đêm Đợi Tàu đã bị Trường Chinh phản ứng. Hoàng Cát khốn khổ vì Cây Táo Ông Lành. Lành là bí danh của Tố 30/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Hữu còn cây táo, thì ai đã từng học phổ thông ở miền Bắc cũng đều biết cây táo đầu nhà Tố Hữu lúc nào cũng \"rung rinh quả ngọt\". Cám cảnh trước sự bầm dập của Hoàng Cát - một thương binh cụt chân, các đồng nghiệp của ông đã nhắn Tố Hữu bằng thơ \"Hoàng Cát không làm gì hung/ Anh Lành chớ gây điều dữ\". Phạm Tiến Duật khi ấy, đang được \"cơ cấu\" làm lãnh đạo và đang nổi như cồn với những bài thơ viết về Thanh niên xung phong, về \"tiểu đội xe không kính\", đã bị theo dõi và có nguy cơ bị bắt. May mắn cho họ là Chiến thắng 30-4-1975 đã mang tới niềm vui như thác lũ cho các nhà lãnh đạo để \"lỗi lầm\" của các văn nghệ sỹ tạm được quên đi. Nhưng đấy là một sự thức tỉnh chứ không chỉ là những phút giây xúc động. Tiểu thuyết Những Người Đi Từ Trong Rừng Ra và tập tiểu luận Trang Giấy Trước Đèn của Nguyễn Minh Châu xuất bản sau năm 1975 bắt đầu cho thấy một cái nhìn mới. Ông cho rằng \"Lâu nay ta viết về chiến tranh không thật. Ta không viết cái thực sự xảy ra mà viết cái ta muốn nó xảy ra\". Năm 1979, khi lý luận hóa ý kiến của Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Về Một Đặc Điểm Văn Hóa Nước Ta, nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã gọi điều mà Nguyễn Minh Châu phê phán là \"chủ nghĩa hiện thực phải đạo\". Bài viết của Hoàng Ngọc Hiến bị đánh tơi bời, vẫn bởi những \"công cụ\" mà Tố Hữu đã sử dụng thời \"Nhân Văn\". Hoàng Ngọc Hiến bị coi là \"đã xúc phạm đến máu, đến một nền văn học xây bằng máu đấu tranh cho độc lập tự do\". Cũng trong năm 1979, đời sống văn nghệ xôn xao trước bản \"Đề dẫn\" của Nguyên Ngọc. Khi Nguyên Ngọc, một nhà văn quân đội đeo quân hàm đại tá, được đưa về trường Nguyễn Ái Quốc, ông lọt vào \"mắt xanh\" của Tố Hữu. Ở thời điểm này, Tố Hữu có ý định thay thế số lãnh đạo nhà văn từng lập công thời \"Thái Hà ấp\" như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi bằng một thế hệ nhà văn \"trưởng thành qua chiến tranh\". Nguyên Ngọc, người có mười ba năm ở chiến trường miền Nam, được chọn. Tháng 11-1978, ông được đưa về làm phó tổng thư ký kiêm bí thư Đảng-Đoàn Hội Nhà văn. Nguyên Ngọc gần như chắc chắn có một \"ghế\" ở Trung ương nếu ông thuận theo cơ cấu của Tố Hữu. Nhưng, chưa đầy hai tháng sau khi Nguyên Ngọc nhận chức, kế hoạch này đã phá sản vì bài phát biểu về sau gọi là bản \"Đề dẫn\" do Nguyên Ngọc đọc tại hội nghị đảng viên của Hội Nhà văn bàn về sáng tác, tổ chức tại Hà Nội ngày 10-3-1979. 31/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Trong bài \"Đề dẫn\" này, sau khi đánh giá lại chặng đường gần hai mươi năm của văn học Việt Nam là khá mờ nhạt, Nguyên Ngọc cho rằng sở dĩ có sự \"chậm trễ, thô thiển\" kéo dài là do \"Phê bình, lý luận đã dung tục hóa mối quan hệ giữa hiện thực và văn học, tuyệt đối hóa hiện thực, và kết quả là buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, người nghệ sĩ phải khiếp nhược trước đời sống. Như vậy thực chất là nó phủ nhận khả năng cải tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Nó hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực\". Cũng phê phán \"chủ nghĩa hiện thực phải đạo\", nhưng Nguyên Ngọc đã vượt qua Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến khi chỉ ra căn nguyên của nền văn học xoay xở dưới trần \"thượng tầng kiến trúc\" của chủ nghĩa cộng sản. Không phải tự nhiên mà Nguyên Ngọc kêu gọi trong văn học phải nhận thấy \"số phận con người\". Ông thừa nhận là đã nghĩ tới bản \"Đề dẫn\" này trong chuyến đi của đoàn nhà văn Việt Nam tới Campuchia ngay sau khi quân đội Việt Nam tràn vào thủ đô Phnom Penh, chứng kiến một đất nước phố không có số nhà, người không có số tù. Nguyên Ngọc nói \"Hitler nói là tàn bạo nhưng vẫn cho mỗi người tù một con số, còn Pol Pot thì không. Ở Campuchia, nhân dân đã bị đảng cầm quyền biến thành vô danh tính. Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết\" 76. Trong ba ngày đầu hội nghị, bản \"Đề dẫn\" đã tạo ra một không khí hân hoan. Nguyên Ngọc nhớ lại \"Chế Lan Viên hồ hởi còn Xuân Diệu thì nhảy cẫng lên\". Chế Lan Viên than \"Từ lâu, ta đã có Ba Giai, Tú Xuất, Học Lạc nhưng ta đã giết nó rồi\" 77. Một người rất cứng rắn như nhà phê bình Vũ Đức Phúc cũng phải cho rằng \"Văn học không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống mà còn đi sâu vào khám phá quy luật bí ẩn của cuộc sống. Nhưng ở nước ta có cái gì thoát khỏi đường lối của Đảng ta không? Không. Cả khi con người đi nghỉ, khi yêu nhau… cũng thấy rõ các vấn đề đường lối\" 78. Nhà thơ Bảo Định Giang ví dụ \"Tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên chỉ vì cái bìa vẽ một nhà ga không có người mà bị đình bản, Ban Bí thư Trung ương can thiệp. Ở một tỉnh Nam Bộ, dựng lại hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu chiến đấu đến cùng, nhưng không thắng, không cho diễn. Tỉnh ủy đòi tả Nguyễn Đình Chiểu phải thắng, lúc nào cũng thắng. Vậy Nam Kỳ Khởi Nghĩa thì sao? Xô Viết Nghệ Tĩnh thì sao? Về quân đội, không được viết ta thua. 32/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Nhưng ai đã từng tham gia chiến đấu đều biết ta cũng thua nhiều lắm\" 79. Nguyễn Đình Thi thừa nhận người trí thức có vấn đề khi ở trong chế độ cộng sản. Ông nói \"Bài học cho người trí thức cộng sản thật khó khăn. Ở Trung Quốc, sau 1949, những trí thức lớn không viết được gì Mao Thuẫn, Ba Kim, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược. Chỉ có một người viết được là Lão Xá. Ông là nhà văn có tài nhất Trung Quốc... Nhưng, Lão Xá tự tử ở cầu Bắc Hải, nơi ông bảo ông vào nghề văn. Ở chủ nghĩa xã hội có những cái ghê gớm. Chúng ta nhìn lại, thấy mình còn may lắm\" 80. Ngày thứ ba, Tố Hữu đến. Ông cho rằng, ai không \"sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa\", không \"hiểu hiện thực theo quan điểm Marxist\" 81 là sai. Năm 1979, nền kinh tế Việt Nam đang ở mức khốn cùng nhưng Tố Hữu yêu cầu các nhà văn phải \"nhận ra nhịp đi của lịch sử\" để thấy \"Dân tộc ta đang ở khúc chóp đỉnh, chỏm nón của thời đại\" 82. Tố Hữu đã nói về \"những bế tắc của xã hội Pháp\" bằng \"một sự buồn và khinh bỉ\" 83. Ngay sau khi leo lên bục phát biểu, Tố Hữu đã nói \"Cái bục này đối với tôi cao quá, đối với anh Nguyên Ngọc thì còn cao hơn. Tôi vừa đi Cao Bằng, nơi tôi gặp các nông dân. Đừng đứng ở đây mà phê phán hiện thực. Cuộc sống còn cao cả hơn hư cấu\". Theo Nguyên Ngọc, Tố Hữu giận nhất là câu \"chủ nghĩa tập thể bầy đàn\". Ông dùng Khổng Tử để nhắc nhở Nguyên Ngọc \"Những người ảo tưởng tưởng mình là nhà chính trị, đồng thời là nhà thơ, nhà tư tưởng lớn là người điên. Ta không phải là người điên, phải trang bị cho mình trí tuệ của thời đại, tức trí tuệ của Đảng, trí tuệ của nhân dân\" 84. Tố Hữu phát biểu xong, Nguyên Ngọc vẫn kết luận \"Hội nghị hoàn toàn nhất trí với đề dẫn\". Tố Hữu bước ra mặt hầm hầm. Một vài nhà văn lớn lo lắng chạy theo. Nguyên Ngọc kể \"Tối hôm đó nhiều người cảm thấy phẫn uất, anh em tụ lại ở trụ sở Văn Nghệ Quân Đội, số 4 Lý Nam Đế. Chế Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo tới nói Để mình dẫn Nguyên Ngọc tới nhà anh Lành xin lỗi’. Tôi cám ơn và nói Nếu thấy cần đi tôi sẽ đi một mình\". Sau Hội nghị đó, trong Đảng Đoàn Hội Nhà văn duy nhất chỉ có Hoàng Trung Thông nói \"Ngọc không sai\". Nguyễn Khải bỏ vào Sài Gòn còn Tô Hoài, như thường lệ, lại \"trốn vô bệnh viện\". Không có nỗ lực tự cởi trói nào của giới văn nghệ có thể tồn tại trong thời gian Tố Hữu nắm quyền 85. 33/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Đầu thập niên 1980, môi trường văn nghệ Việt Nam còn một thời kỳ bức bối, nhất là sau vụ bắt hai nhà thơ Hoàng Hưng và Hoàng Cầm. Nhà thơ Hoàng Hưng bị bắt chiều ngày 17-8-1982, khi ông đến số 5 Bát Đàn gặp Trần Thiếu Bảo, giám đốc Nhà Xuất bản Minh Đức, để lấy tập thơ Về Kinh Bắc. Tập thơ được coi là vô giá không chỉ vì thơ mà còn vì nó được chép tay, được minh họa bằng một bức \"lá diêu bông\" của Văn Cao và bốn phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ đội nón quai thao, mặc áo tứ thân. Ba ngày sau, 20-8-1982, cơ quan an ninh văn hóa bắt Hoàng Cầm. Một bản chép tay khác trước đó đã được chuyển vào Sài Gòn cho giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Việt kiều Canada. Nhưng, nhờ cấp báo của Dương Tường, Giáo sư Hùng đã kịp gửi lại tập thơ Về Kinh Bắc để có thể vượt qua vòng khám hành lý ở sân bay. Tại nhà giam, Hoàng Cầm \"nhận tội\" rằng, những tuyệt tác thơ tình đó của ông được làm để \"chống Đảng và đả kích chế độ\". Theo Hoàng Hưng Trong tập Về Kinh Bắc có ba bài thơ, Cây Tam Cúc, Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi - thường được gọi là bộ ba cây - lá - quả, được rất nhiều thế hệ người đọc chuyền tay, và cũng không ít người diễn dịch bài thơ như những lời oán trách của \"em\" văn nghệ sĩ với \"chị\" Đảng, đại khái \"em\" yêu \"chị\", nhưng \"chị\" đã lừa \"em\", cho \"em\" ăn toàn \"quả rụng\", rồi bỏ mặc \"em\" bơ vơ để đi lấy chồng. Năm 1974, công an Hà Nội đã gọi Hoàng Cầm lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ \"có nội dung xấu\" ấy. Hoàng Cầm phải ngưng. Nhưng sau 1975, Về Kinh Bắc có thêm độc giả ở miền Nam. Năm 1979, một số Việt kiều có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên có \"bộ ba cây - lá - quả\". Một nữ bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin Hoàng Cầm gửi cho một số bài thơ. Về sau mới biết bà là đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Về Kinh Bắc bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng khi mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị 86. Cởi ra… Đầu thập niên 1980, Đạo diễn Trần Văn Thủy bấm máy bộ phim tài liệu Hà Nội Trong Mắt Ai. Bộ phim sử dụng rất nhiều tích cũ dễ khiến cho người nay giật mình. Nhất là đoạn nói về việc \"phê đơn\" của bà Huyện Thanh Quan. 34/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Bà Huyện có chồng đang làm tri huyện ở miền Trung. Một hôm, chồng đi vắng, bà nhận đơn của \"Nguyễn Thị Đào\" xin được cải giá vì chồng đi lính thú. Thương cảm cho người phụ nữ xa chồng, Bà Huyện đã mạnh dạn phê vào đơn \"Phó cho con Nguyễn Thị Đào/ Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai\". Cô Đào vừa đi bước nữa thì chồng trở về, phát đơn kiện. Hậu quả là ông Huyện bị mất chức. Trong phim, Trần Văn Thủy bình \"Mới biết cái máu me văn nghệ dính vào việc quan trường gây ra nhiều sự rắc rối là thế!\". Phim cũng nói đến Nguyễn Trãi, người cùng với em họ là Trần Nguyên Hãn \"nếm mật nằm gai\" phò Lê Lợi suốt mười năm kháng chiến chống quân Minh. Khi Trần Nguyên Hãn bị Lê Lợi bức tử, Nguyễn Trãi cũng bị \"tạm giam\". Lê Lợi có lần vào ngục thăm ông rồi hỏi nên viết quốc nhạc như thế nào. Phim kể là Nguyễn Trãi đã bình thản mà rằng \"Thưa bệ hạ, thương yêu dân chúng thì hãy làm những việc nhân đức. Đừng vì ơn riêng mà thưởng bậy. Đừng vì giận ai mà phản bội. Đó là cái gốc trường tồn nhất của quốc nhạc!\". Ngay tại xưởng phim nơi bộ phim ra đời, lãnh đạo xưởng đã thấy \"có gì đó không ổn\". Bộ phim bị coi là \"ám chỉ\". Theo Đạo diễn Trần Văn Thủy \"Có lần bộ phim đã được chiếu đi, chiếu lại tới bốn lượt trong một buổi sáng tại Quân ủy Trung ương. Ủy ban Khoa học Xã hội đã phải tổ chức một cuộc toạ đàm, có các đại biểu của Viện Sử học, Viện Triết học, Viện Hán Nôm cùng tham gia. Các đại biểu không tìm ra bất kỳ một sai sót nào của phim. Nhưng, Hà Nội Trong Mắt Ai vẫn bị cấm chiếu\". Chiều ngày 18-10-1983, đích thân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã xem Hà Nội Trong Mắt Ai. Rồi ngay sau đó, ông Phạm Văn Đồng yêu cầu phải \"tổ chức chiếu công khai bộ phim này cho nhân dân xem\". Nhưng, cho dù có lệnh của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hà Nội Trong Mắt Ai cũng chỉ được chiếu trong một thời gian ngắn. Bộ phim sau đó đã được đưa tới Văn phòng Trung ương Đảng chiếu cho ông Trường Chinh xem. Theo Đạo diễn Trần Văn Thủy thì trong buổi chiếu, có ông Lê Xuân Đồng, phó ban Tuyên huấn, người cực lực phản đối bộ phim này và ông Đặng Xuân Kỳ, viện trưởng Viện Triết học, con trai Trường Chinh, người rất nhiệt thành ủng hộ. Nhưng, liền sau đó, bộ phim đã \"tuyệt đối không được chiếu nữa\". Từ đó cho đến sau Đại hội VI, theo ông Thủy \"Vợ mình bảo mình điên. Đồng nghiệp, cứ bảy rưỡi, tám giờ sáng là tề tựu ở cơ quan lo xem Trần Văn Thủy đã… bị bắt chưa!\". 35/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Khi ấy, hai đầu đất nước thì chiến tranh, trong mỗi con người thì đói rét. Ở nông thôn, nông dân đã \"đồng khởi\" bằng những làn sóng khoán chui. Trong các nhà máy, xí nghiệp, công nhân bắt đầu \"xé rào\" làm \"ba lợi ích\". Giữa năm 1983, Trường Chinh bắt đầu đi cơ sở. Tuy vẫn được coi là một thành trì cứng rắn nhưng, từ cuối năm 1983, Trường Chinh bắt đầu thận trọng và chịu lắng nghe hơn. Tháng 9- 1985, uy tín của Tố Hữu gần như không còn, sau thất bại của giá- lươngtiền. Tại Đại hội VI, tháng 12-1986, các đại biểu đã gạch tên ông trong phiếu bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cho dù đang có vụ án \"hai nhà thơ họ Hoàng\", đang có vụ \"Trần Văn Thủy\", trong khoảng thời gian này, giới văn nghệ sỹ bắt đầu nuôi khát vọng thoát ra khỏi cái ngột ngạt của quan liêu cả về kinh tế và chính trị. Cũng như văn học, nền sân khấu xã hội chủ nghĩa cũng từng phải thể hiện cái hoành tráng của cuộc chiến tranh. Khi chưa giành được thắng lợi, mọi thứ hãy đang trong chờ đợi thì sự hoành tráng đó có thể che đậy được những khao khát cá nhân. Nhưng, khi kết thúc chiến tranh, người dân nhận ra những điều mà họ chấp nhận hy sinh tuổi xuân để chiến đấu cho, không tới. Những người cầm quyền có lương tâm cũng cảm thấy đắng cay còn nhân dân thì thất vọng. Trước thực tế đó, nghệ thuật tuyên truyền càng được huy động, tưởng có thể che đậy những khát khao rất cụ thể của nhân dân, hóa ra lại càng giúp con người nhận ra sự chơi vơi, trống rỗng. Chiến thắng mà không thấy gì cho mình. Theo nhà phê bình sân khấu Ngô Thảo \"Giữa lúc ấy thì các đoàn kịch, cải lương từ miền Nam ra, dựng sân khấu diễn khắp hang cùng ngõ hẻm miền Bắc. Những Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu với từng số phận hiện ra rất rõ, tuy có vẻ như bế tắc nhưng thật con người. Dân chúng đổ xô đi xem. Các đoàn ca, kịch miền Bắc mất dần khán giả\". Khác với văn học, sự thất bại trong sân khấu bao gồm cơm áo của cả một đội ngũ. Đời sống bức bách buộc các đoàn nghệ thuật sân khấu phải chòi đạp. Cái gì bắt đầu từ cuộc sống thì cũng mang theo chính hơi thở của nó. Có thể nói là trong các hoạt động nghệ thuật đòi dân chủ hóa xã hội, sân khấu đã đi đầu. Cuối năm 1985, trong Hội diễn Sân khấu tại Sài Gòn, các đoàn miền Bắc đưa vào năm vở kịch, được ví với \"năm cỗ xe tăng\" của tinh thần dân chủ 87. Theo Ngô Thảo \"Nhân Danh Công Lý đã bị duyệt đi duyệt lại nhiều lần. Mùa Hè Ở Biển thì tới phút cuối Đoàn Nam Định mới được 36/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Tỉnh ủy cho phép dự hội diễn. Quân đội lúc đầu cũng định không cho Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần diễn Bài Ca Giữ Nước. Báo Nhân Dân có bài gay gắt đánh’ Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt và Hà Mi Của Tôi, còn Hình Và Bóng thì bị cấm\". Cho dù không phải là tác giả của đường lối đổi mới Đại hội VI, nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với những tuyên bố nồng nhiệt ban đầu đã tạo ra nhiều cảm hứng dân chủ hóa cho một xã hội đã bị trói buộc khá lâu trong vòng bao cấp. Tháng 5-1987, phim Hà Nội Trong Mắt Ai được chuyển tới Nguyễn Văn Linh. Theo ông Trần Trọng Tân, khi ấy ông vừa được điều từ Campuchia về làm trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trần Văn Thủy đưa phim Hà Nội Trong Mắt Ai cho ông. Ông Tân nói \"Coi xong thấy hay quá, tôi hỏi Thủy sao phải đưa tôi coi? Thủy nói Trên không cho chiếu. Tôi về hỏi người giúp việc thì được anh cho biết Cụ Trường Chinh nói phim này ám chỉ nên không cho phát hành. Khi đó, tôi tính, mình mới về nếu mình cũng cấm thì không hay mà mình nói cho thì… tế nhị nên điện thoại cho anh Nguyễn Văn Linh Anh rảnh mời anh coi cái phim của anh Thủy. Tôi coi thấy hay nhưng trước đây, anh Trường Chinh đã không cho chiếu. Anh Linh thu xếp coi, xong anh bảo Hay! Cứ cho chiếu, còn giữa tôi và anh Trường Chinh thì để tôi lo\". Theo ông Trần Văn Thủy thì sau đó Ban Văn hóa Văn nghệ của Trần Độ cũng đã làm khá bài bản. Theo chỉ thị của tổng bí thư, Ban triệu tập một buổi chiếu Hà Nội Trong Mắt Ai cho tất cả những người có trách nhiệm về quản lý văn hóa, văn nghệ, tổng thư ký các hội văn học, nghệ thuật xem và bỏ phiếu. Vì tổng bí thư đã khen, \"100% người xem bỏ phiếu thuận\". Ngày 25-9-1987, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản truyền đạt ý kiến của Ban Bí thư, chỉ thị Ban Tuyên huấn, Bộ Văn hóa phổ biến rộng rãi Hà Nội Trong Mắt Ai. Tháng 3-1988, tại Liên hoan Phim Việt Nam ở Đà Nẵng, Hà Nội Trong Mắt Ai đoạt một lúc bốn giải thưởng Bông sen vàng cho phim tài liệu, Biên kịch xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Quay phim xuất sắc nhất. Đổi mới cũng đã thực sự \"cởi trói\" cho lĩnh vực sân khấu. Những vở kịch gai góc không còn có số phận long đong như trước đây. Những Tào Mạt, Xuân Trình, Doãn Hoàng Giang, và đặc biệt, Lưu Quang Vũ, nhanh chóng trở thành những ngôi sao của sân khấu. 37/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Lưu Quang Vũ sinh năm 1948. Năm 1965, Vũ khai gian tuổi để vào bộ đội. Tuy nhiên, môi trường quân đội mà anh trải qua đã không lý tưởng như những gì mà anh tưởng tượng khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Máu văn nghệ và kỷ luật quân đội là hai \"phạm trù\" mâu thuẫn. Là lính thợ sửa máy bay ở sân bay Bạch Mai, trong khi, người yêu của anh, diễn viên điện ảnh Tố Uyên nổi tiếng và xinh đẹp, thì đang ở Hà Nội \"Không có em anh cũng chẳng là anh/ Biết ơn bàn tay chỉ sắc màu hạnh phúc/ Em là rễ nối liền anh với đất/ Lại là chồi nở búp đón sương mai\". Vũ thường xuyên trốn về gặp Tố Uyên và kết quả là năm 1970, Lưu Quang Vũ bị loại ngũ vì liên tục vi phạm kỷ luật. Trở về thành phố, không sổ gạo, không hộ khẩu, Lưu Quang Vũ được Tạ Đình Đề 88 đưa về làm ở xưởng cao su Đường sắt. Rồi, có lúc làm sửa lỗi chính tả ở Nhà Xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, làm bích báo, vẽ pano, khẩu hiệu. Năm 1978 Vũ được cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận can thiệp cho về Tạp chí Sân Khấu. Ở đây, anh được Đạo diễn Phạm Thị Thành đặt hàng viết một vở kịch về Lý Tự Trọng. Và Vũ đã viết vở kịch đầu tay của anh Mãi Mãi Tuổi 17. \"Cởi trói\" đã biến Lưu Quang Vũ trở thành nhà viết kịch đắt hàng nhất. Những tràng vỗ tay của khán giả khi xem kịch Lưu Quang Vũ đã đưa các trưởng đoàn kịch từ khắp các tỉnh thành phải về \"ăn dầm nằm dề\" ở nhà anh để chờ kịch bản. Năm mươi vở kịch đã được Lưu Quang Vũ viết, chủ yếu trong những năm giữa thập niên 1980. Nếu như sân khấu đã gây dấu ấn ở Hội diễn 1985 thì Hội Nhà văn lúc đó lại \"gần như dửng dưng với đổi mới\". Tờ báo Văn Nghệ cho tới đầu năm 1987 ế tới mức không còn tiền mua giấy. Tổng Biên tập Đào Vũ gửi thư cho Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương tuyên bố đóng cửa tờ báo. Trưởng ban Trần Độ không chấp nhận đóng cửa Văn Nghệ, thúc giục Hội phải nhanh chóng tìm người thay thế. Trong một cuộc họp nội bộ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đề nghị \"mời Nguyên Ngọc\". Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu gặp Trần Độ báo cáo. Trần Độ thúc Hội làm thủ tục ngay để điều Nguyên Ngọc về nhưng Nguyễn Đình Thi cứ chần chừ cho đến khi Tướng Trần Độ cử người đến Hội yêu cầu. Tháng 6-1987, Nguyên Ngọc có quyết định về làm tổng biên tập tờ Văn Nghệ. Khi đó, tờ báo này đã \"đình bản\" liên tục bốn số liền, Võ Văn Trực và Ngô Ngọc Bội đang chuẩn bị cho ra một tờ \"bốn số gộp\". Bản thảo số báo này có truyện ngắn Tướng Về Hưu, một truyện ngắn 38/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính được gửi tới báo Văn Nghệ từ khá lâu, tác giả của nó khi đó chưa ai biết đến. Ngô Ngọc Bội cho rằng đó là một truyện ngắn hay, nhưng Tổng Biên tập Đào Vũ mấy lần xếp lại. Theo Nguyên Ngọc, khi biết ông sẽ về thay thế Đào Vũ, Võ Văn Trực có tham khảo ông và ông đã khuyến khích Võ Văn Trực cho đăng. Tướng Về Hưu ngay sau khi công bố đã định danh một nhà văn tài năng Nguyễn Huy Thiệp. Cuộc tranh luận về Tướng Về Hưu trên nhiều diễn đàn ngay sau đó đã làm cho Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng và tờ Văn Nghệ được chú ý hơn. Ông Nguyên Ngọc kể \"Nhận chức, tôi họp anh em nói, báo Văn Nghệ hơn các báo ở chỗ có chất văn, nhưng đã báo thì phải có tính chiến đấu. Muốn lôi cuốn độc giả thì phải đưa đời sống vào báo, phải làm sống lại mảng phóng sự văn học, lấy phóng sự làm mặt trận chính của báo\". Phóng sự đầu tiên gây xôn xao trên báo Văn Nghệ viết về ông Nguyễn Văn Chẩn, còn được gọi chết tên là \"Vua Lốp\", người bị Hà Nội khởi tố vì \"thu gom phế liệu\" một ngành \"độc quyền nhà nước\". Bài phóng sự do Trần Quang Huy viết có tên Lời Khai Của Một Bị Can nhanh chóng được nhiều tờ báo đăng lại hoặc lên tiếng ủng hộ, kể cả báo Nhân Dân. Sau Lời Khai Của Một Bị Can, Văn Nghệ có thêm những bài báo thu hút dư luận như Người Đàn Bà Quỳ và đặc biệt là Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì? của Phùng Gia Lộc. Phùng Gia Lộc là một người viết văn ở Thanh Hóa. Giữa thập niên 1980, ông có một số bài viết đụng chạm đến những tiêu cực ở địa phương. Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa bấy giờ là ông Hà Trọng Hòa, một người mà bài vè \"Thanh Hóa dô tá, dô tà\" gọi là \"vua không ngai\". Bị đe dọa, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội. Theo Nguyên Ngọc \"Anh em văn nghệ ở Thanh Hóa tổ chức đưa Phùng Gia Lộc lên tàu, cử hai người đứng hai đầu toa để canh chừng. Ra Hà Nội, thoạt đầu Lộc ở nhà Bế Kiến Quốc, sau thấy nhà Quốc không an toàn, anh em đưa Lộc về sống tạm ở tòa soạn báo Văn Nghệ\". Tại Tòa soạn báo Văn Nghệ, Phùng Gia Lộc kể lại câu chuyện chính quyền Thanh Hóa theo lệnh của bí thư, tịch thu xe đạp, phích nước và lợn gà của những gia đình thiếu thóc nghĩa vụ. Năm ấy Thanh Hóa mất mùa, đói kém, bí thư chỉ thị \"Lợi ích của người lao động phải hy sinh cho lợi ích nhà nước\". 39/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Câu chuyện xảy ra trong một gia đình có một cụ già bệnh nặng, sắp tới lúc gần đất xa trời. Gia đình đã giấu vào trong cỗ quan tài đóng sẵn của bà cụ một ít thóc để lo \"hậu sự\". Gần một giờ sáng, \"dân quân ập vào… tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu eng éc như bị chọc tiết,… dân quân, công an lật cỗ quan tài dưới gầm bàn thờ, lúa chảy rào rào. Đấy là lúa tạ, hai cô con gái mua cho để sau hôm bà già chết, đãi khách\". Phùng Gia Lộc kể, cả tòa soạn Văn Nghệ ngồi nghe, rồi khóc. Nguyên Ngọc nói \"Tôi bảo Lộc viết ngay đi\". Lộc cầm bút và bài ký Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì của anh, đăng trên Văn Nghệ số ra ngày 23-1- 1988, đã gây chấn động. Các báo cho đăng lại. Cuộc chiến của báo Văn Nghệ, Phùng Gia Lộc với Bí thư Thanh Hóa Hà Trọng Hòa từ đó bắt đầu được gần như tất cả các báo theo dõi và đăng bài ủng hộ. Năm 1987 có thể coi là năm của Nguyễn Văn Linh. Câu nói tưởng như vô trách nhiệm của ông với văn nghệ sỹ, \"hãy tự cứu mình trước khi trời cứu\", đã tạo ra những ảnh hưởng không ngờ. Bản chất của lao động sáng tạo là độc lập. Điều mà giới văn nghệ sỹ cần là tự do. Được lời của tổng bí thư, ai cũng sốt sắng tự mình cởi trói. Nhiều tác phẩm gây xôn xao dư luận, xuất bản trong thập niên 1990, đã thai nghén trong giai đoạn Nguyễn Văn Linh. Sau Nguyễn Huy Thiệp, xuất hiện thêm Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,… Những nhà văn đã có tác phẩm trước đó như Dương Thu Hương, Nguyễn Minh Châu cũng bắt đầu viết bằng những hơi thở mới. Sau Nghị quyết 05 Bộ Chính trị, công an và các cơ quan liên quan triển khai \"làm chính sách cho các đối tượng Nhân Văn Giai Phẩm\". Đại tá Thái Kế Toại, người được A25 giao viết báo cáo về \"tình hình các đối tượng Nhân Văn\" cho biết, công an đã \"đề xuất phương hướng giải quyết chế độ chính sách\" theo hướng Phục hồi hội tịch Hội Nhà văn cho Trần Duy, Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ lương hưu cho Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung. Cũng trong năm 1987, lần đầu tiên kể từ sau Nhân Văn, Nhà Xuất bản Văn hóa in cho Hoàng Cầm tập thơ Mưa Thuận Thành; Báo Quảng Nam-Đà Nẵng in cho Phùng Quán trường ca Cây Cà. Năm 1988, Nhà Xuất bản Tác phẩm mới in tập thơ Lá của Văn Cao. Năm 1976, Văn Cao sáng tác ca khúc đầu tiên kể từ sau \"Nhân Văn\", bài hát có tên là Mùa Xuân Đầu Tiên đã được in trên báo Sài 40/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Gòn Giải Phóng và được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Tuy nhiên ngay sau đó, bằng một lệnh không thành văn, Mùa Xuân Đầu Tiên biến mất. Cuối thập niên 1980, những \"đêm nhạc Văn Cao\" bắt đầu được tổ chức trang trọng ở Sài Gòn và Hà Nội. Cũng trong năm 1988, Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà Nội và được cấp nhà. Cho dù, trước khi Nguyễn Văn Linh rời chính trường, tháng 4- 1991, Ban Chấp hành Trung ương mà ông đứng đầu vẫn ra thông báo về vụ án \"Nhân Văn Giai Phẩm\" và vụ \"Xét lại chống Đảng 1967\" với quan điểm \"không thừa nhận sai lầm, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây\". Nhưng Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Cung,… tiếp tục được xuất bản tác phẩm. Năm 1992, Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam được in và tên của Phan Khôi lần đầu tiên được nhắc lại. Khát vọng tự do của người dân, đặc biệt là của tầng lớp trí thức và văn nghệ sỹ, thường không có giới hạn. Nhất là lúc đã đứng thẳng dậy. Đây cũng là thời kỳ mà chương trình \"cải tổ\" được Gorbachev thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô. Đây cũng là thời kỳ, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Việt Nam có thể đã khác và lịch sử có thể đã ghi nhiều dấu ấn của Nguyễn Văn Linh hơn nếu như, cuối thập niên 1980, mục tiêu ưu tiên của ông đã không được chuyển từ dân chủ hóa hệ thống chính trị và đời sống xã hội sang cứu vãn sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa. - 1 Cho đến Năm 2005, ông Nguyễn Thành Đệ đã chết gục trên bàn tiếp dân của Sở Xây dựng, kết thúc bi kịch đòi lại căn nhà mà ông đã bị tịch thu năm 1979. 2 Tên thường gọi của ông Trần Minh Đức, phó tổng biên tập Tuổi Trẻ 1981-1997, người được coi là \"bộ óc chiến lược\" của báo. 3 Tổng biên tập Tuổi Trẻ 1979-1983, phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng 1983-1990 và sau đó là tổng biên tập Thời báo Kinh tế Sài Gòn 1990-2006. 4 Gồm Lê Thọ Bình, Tâm Chánh, Thanh Tâm, Phan Ngọc, Bùi Thanh, Kim Trung, Minh Đức, Minh Hà… 5 Khi ấy là Phó tổng biên tập báo Nhân Dân. 6 Ông Nguyễn Văn Linh viết \"Sau vài bài đầu của Những việc cần làm ngay, có đồng chí khuyên tôi nên thôi, vì lo Những bài viết của tôi sẽ không được hưởng ứng, lúc đó mới thôi viết, thế là đánh trống bỏ dùi, đã vô ích lại mất tín nhiệm; Sợ tôi làm sao biết hết, 41/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính biết thật đúng mọi việc, sẽ có sự đôi co phản tác dụng…; Cũng có người có trách nhiệm chỉ trích, biết bao nhiêu việc cần làm, sao phải hăng hái chống tiêu cực như vậy? Sao không chuyên tâm nói tới những chuyện tích cực? Vài trăm tấn tỏi, mấy vị mang hộ chiếu ngoại giao đi buôn… có gì là ghê gớm, phê và tự phê công khai chỉ làm rối lòng dân, làm cản trở công việc của cán bộ lãnh đạo\". Rồi ông tuyên bố \"Đành phải trái lời khuyên, tôi vẫn viết tiếp vì thấy cần quá\" báo Nhân Dân số ra ngày 10-7-1987. 7 Chỉ thị 05/CT-TU, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 8 \"Tiêu biểu là quận Tân Bình, đã thực hiện được 1129 việc cần làm ngay trong đó có 520 việc ở khu phố, số việc chống tiêu cực chỉ chiếm 5% còn lại là những việc tích cực như lập an ninh trật tự, phân phối lưu thông, sửa đường, cầu cống, lớp học. Ở Phú Nhuận, thực hiện được 181/256 sự việc. Ở Hóc Môn, thành lập được 7 đoàn cán bộ xuống tháo gỡ khó khăn ở 31 hợp tác xã và 14 xã\" Chỉ thị 05/CTTU, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 9 Phó chính ủy Quân giải phóng miền Nam trong thời gian ông Nguyễn Văn Linh làm Phó bí thư Trung ương Cục. 10 Những phát biểu trong cuộc đối thoại được trích đăng trong đoạn này lấy từ bài tường thuật trên báo Văn Nghệ 42, ngày 17-10- 1987. 11 Năm 1957, khi ra Bắc, thay vì chọn Nguyễn Văn Linh, người đã là thường vụ Xứ ủy từ năm 1949, Lê Duẩn giao chức bí thư Xứ ủy Nam Bộ cho ông Phạm Hữu Lầu, một người đang có bệnh và chỉ sống được thêm vài năm sau đó. Tại Đại hội III, ông Linh được bầu vào Trung ương và, năm 1960, khi Xứ ủy Nam Bộ được thay thế bằng Trung ương Cục, ông là bí thư. Nhưng, năm 1965, khi \"cách mạng miền Nam\" chuyển sang giai đoạn \"đánh Mỹ\", ông Lê Duẩn đã đưa Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào thay thế. Năm 1967 khi ông Thanh mất, một ủy viên Bộ Chính trị khác là Phạm Hùng đã được \"điền\" vào để nắm Trung ương Cục. Ông Linh phải chấp nhận làm \"phó\" cho tới sau 1975. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh được giao phụ trách phần \"nổi dậy\" và khi về Sài Gòn, ông \"lửng lơ\" ở Trung ương Cục cho tới tháng 2-1976 mới được bố trí làm bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Tháng 12- 1976, Nguyễn Văn Linh trở thành ủy viên Bộ Chính trị nhưng chỉ được làm trưởng Ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa Trung ương; rồi năm 1978, khi xuất hiện vấn đề \"người Hoa\", ông Lê Duẩn đưa Đỗ Mười vào thay thế. Nguyễn Văn Linh được điều ra Hà Nội làm 42/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính trưởng Ban Dân vận, rồi chủ tịch Tổng Công đoàn. Đến năm 1980 thì ông chỉ còn là \"ủy viên Bộ Chính trị theo dõi thực hiện nghị quyết của Đảng và Chính phủ ở phía Nam\". 12 Trong cuốn sách này, Nguyễn Văn Linh phê phán sự \"choáng ngợp trước thắng lợi\" và chỉ trích những cán bộ tiếp quản miền Nam \"thừa nhiệt tình và thiếu kiến thức\". Ông Linh viết \"Chúng ta đã không đủ bình tĩnh để nhìn thành phố một khi được giải phóng, hiển nhiên trở thành tài sản của chính chế độ ta dù cho kẻ thù xây dựng thành phố nhằm mục đích gì; chưa nhận thức được thực trạng kinh tếxã hội của Thành phố qua hai mươi mốt năm sống dưới chế độ thực dân mới, đã là một khu vực có trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa nhất định… thay vì giữ cho quy trình sản xuất tiếp tục vận hành và phát triển thì chúng ta vội vàng lên án, vội vàng sửa đổi cơ chế của nó, phủ nhận từ khoa học quản lý đến quy trình kỹ thuật\" Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, Nhà Xuất bản Sự thật 1985, trang 95. 13 Trong khi, ngày 17-10-1986, Trường Chinh đã \"tuyên ngôn đổi mới\" tại Đại hội đại biểu đảng bộ Hà Nội. Ngày 23-10-1986, phát biểu tại Đại hội đại biểu đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn kêu gọi \"Nâng cao hiệu quả kinh doanh phục vụ của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý thị trường, giá cả\". Mãi tới cuối bài phát biểu, Nguyễn Văn Linh mới lưu ý các đại biểu về bài phát biểu nói trên của Tổng Bí thư Trường Chinh. 14 Năm 1978, cách \"đánh tư sản\" của ông Đỗ Mười đã làm cho hầu hết các nhà lãnh đạo có mặt ở miền Nam phản ứng. Nhưng, theo ông Đặng Quốc Bảo, ông Nguyễn Văn Linh còn có một số bức điện gửi cho Ban Bí thư, phân tích vai trò quan trọng của người Hoa như một nhịp cầu nối nền kinh tế miền Nam với các nơi. Cách nhìn nhận này, theo ông Bảo \"Đã làm cho những người bảo thủ trong Trung ương quy kết ông Linh chống lại Nghị quyết Đại hội IV. Người trực tiếp truyền đạt ý kiến này là ông Trường Chinh\". Năm 1983, khi Hội nghị Đà Lạt diễn ra, theo bà Nguyễn Thị Đồng, bí thư nhà máy Dệt Thành Công, mấy lần bà được ông Linh rỉ tai \"Ông Trường Chinh đã thừa nhận ông ấy sai, tôi đúng\". Thư ký của Tổng Bí thư Trường Chinh, ông Trần Nhâm kể Ngay sau bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 6, tháng 7-1984, Nguyễn Văn Linh là một trong những người đầu tiên đến nhà ca ngợi ông Trường Chinh. Nhưng khi Trường Chinh đề nghị \"Anh nắm được thực tế, anh nên phát biểu, vì tình hình còn căng lắm\". Ông Linh nói \"Anh 43/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính phát biểu thì chúng tôi ủng hộ chứ chúng tôi không phát biểu được\". 15 Đại Việt Tân Báo của Đào Nguyên Phổ, năm 1905; Đăng Cổ Tùng Báo, năm 1908, Đông Dương Tạp Chí của Nguyễn Văn Vĩnh, năm 1913; Nam Phong Tạp chí của Phạm Quỳnh, Phan Khôi, năm 1917. Năm 1927, ở miền Trung, Huỳnh Thúc Kháng ra tờ Tiếng Dân. Năm 1930, Quốc Dân đảng ra hai tờ Khúc Tiêu Sầu và Con Đường Chính. 16 Nguyễn Đình Thi, Nhân Đường, Tạp chí Văn Nghệ số 1. 17 Tạ Tỵ, Mai Thảo, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Mạnh Côn, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Duy, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Lê Văn Vũ Bắc Tiến… 18 Phát ngôn nổi tiếng của Mao \"Trí thức không bằng cục phân\". 19 Ngày 11-3-1955. 20 Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân đội, số 4, tháng 4-1958. 21 Trong bài thơ Nhất Định Thắng, Trần Dần viết Gặp em trong mưa/ Em đi tìm việc/ Mỗi ngày đi lại cúi đầu về/ - Anh ạ!/ Họ vẫn bảo chờ... Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt./ Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt./ Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù/ Chúng còn đương bày kế hại đời ta? 22 \"Luồng gió ấm\" này của Văn nghệ Liên Xô đã sinh ra một thế hệ văn nghệ sĩ tài năng với các tác phẩm xuất sắc như Bác sĩ Jivago, Đàn Sếu Bay Qua, Hai Người Lính, Người thứ 41, Không Thể Sống Bằng Bánh Mì, Ngày Của Binh Nhất Ivan… 23 Ra ngày 15-9-1956. 24 Nhân Văn số 2 25 Nhân Văn số 5 26 Điều 8, Sắc lệnh 14-12-1956, quy định \"Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ tục về khai báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép tờ báo mới được bắt đầu hoạt động. Báo chí nào đã được cấp phép xuất bản mà sau đó có một sự thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ hạn phát hành hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức của tờ báo đều phải xin phép và khai báo lại\". 27 Ngày 30-10-1956, sau khi nghe Trường Chinh thay mặt Đảng đọc \"kiểm điểm về sai lầm của Cải cách Ruộng đất\" trước Hội nghị Ban 44/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính Chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Tường đã nói \"Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói, được chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết bởi địch, cho ta. Đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, những người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh\". Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường nói tiếp \"Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng,… khi đưa ra khẩu hiệu thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch’ thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa… Khẩu hiệu này đã tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì? Khẩu hiệu của pháp lý phải là thà mười địch sót còn hơn một người bị kết án oan\". Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường chỉ ra điểm mấu chốt của sai lầm \"Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý\". Ông tiếp \"Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ chân lý\" Tập san Tự do Diễn đàn, Minh Đức xuất bản số cuối tháng 12-1956. 28 Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 222. 29 Đinh Linh phải ngồi tù cho tới năm 1975. 30 Theo đại tá Thái Kế Toại Lê Hoài Nguyên – Vụ Nhân Văn Giai Phẩm…. 31 Theo Đại tá Thái Kế Toại, người phụ trách hồ sơ vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở A 25 \"Nghị quyết này là một điển hình cho tình trạng cực đoan về lãnh đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam\". 32 Một quần thể kiến trúc ở Hà Nội xây dựng bởi Tổng đốc Hoàng Cao Khải, thời Thành Thái. 33 Trong bài \"Tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm\" 45/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính đọc ngày 4-6-1958, Tố Hữu nói Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái \"điệu tâm hồn\" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa. Đương nhiên cái \"điệu tâm hồn\" ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với \"tiếng sáo tiền kiếp\" lóc gân của tên mật thám Trần Duy. Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác - những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ - nay lại trở về với \"cảnh cũ người xưa\" bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội \"nghẹt thở\", chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là \"những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra\". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên \"tiếng trống tương lai\" chửi cán bộ chính trị là \"người bệnh\", \"người ròi\", \"người ụ\". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu chửi cán bộ chính trị là \"người bệnh\", \"người ròi\", \"người ụ\". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu 1959, trang 23. 34 Nhận xét của Đại tá Thái Kế Toại. 35 Hoàng Cầm bị khai trừ khỏi Ban Chấp hành Hội, khai trừ ra khỏi Hội một năm; \"Cho\" Hoàng Tích Linh rút khỏi Ban Chấp hành; Khai trừ vĩnh viễn Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà văn; Khai trừ có thời hạn ba năm đối với Trần Dần, Lê Đạt; Khai trừ một năm đối với Phùng Quán. Ở Hội Mỹ thuật \"cho\" Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi Ban Chấp hành; khai trừ Trần Duy. Ở Hội Nhạc sĩ \"cho\" Văn Cao, tác giả Quốc ca và Nguyễn Văn Tý, rút khỏi Ban Chấp hành; khai trừ ba năm Tử Phác, Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội. Một số nhân sĩ có thái độ ủng hộ Nhân Văn như Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn Đức, Đặng văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng… đều bị liên lụy. Tại các địa phương, nhiều giáo viên, cán bộ , học sinh có mua báo Nhân Văn đều bị xử lý với nhiều hình thức. 36 Theo Đại tá Thái Kế Toại. 37 Theo Đại tá Thái Kế Toại. 38 Trần Dần tự nhận \"Tất cả cái gọi là sự nghiệp chống công thức, tìm cái mới của tôi chỉ là sự nghiệp chống Đảng ngày càng trầm trọng và khôn khéo hơn, như thế mà thôi. Tôi tưởng tôi là một thứ martyr’ tử vì đạo vì dân vì Đảng, nhưng sự thực chứng tỏ dối 46/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính dân, dối Đảng, tôi là một kẻ tội đồ, mà dân ta, Đảng ta còn chưa trừng trị. Tôi tưởng con đường tôi đã đi là con đường hi sinh cao cả chemin de calvaire’ sự thực chứng tỏ đó chỉ là một con đường tội lỗi nhơ bẩn mà hình phạt vẫn còn chưa xứng tội\" Văn Học số 1, ngày 25-5-1958, và Văn Nghệ số 12, tháng 5-1958. Lê Đạt đã tự nhận mình \"xuất thân từ giai cấp tư sản bóc lột\", \"vào Đảng với động cơ địa vị\", và ngay cả \"lấy vợ cũng cơ hội, kiếm chác lập trường’ trên đời một người cốt cán rồi đến lúc về Hà Nội lại hiện nguyên hình giai cấp bóc lột khinh công nông ruồng rẫy vợ, cho vợ không xứng đáng với mình\". Ông cho rằng \"đồng chí Tố Hữu đối với tôi rất tốt và luôn luôn nâng đỡ tôi\". Lê Đạt \"thừa nhận\" việc phê bình thơ Tố Hữu là vì \"háo hức kiếm danh\" mà \"quên hết cả những điều tốt của đồng chí Tố Hữu, hằn học đả kích hòng dìm đồng chí xuống để nâng mình lên\" Văn Học số 1, ngày 25-5-1958 và Văn Nghệ số 12, tháng 5-1958. Còn đây là một bài báo đứng tên Hoàng Cầm \"Tôi đã là một tên đào ngũ, bỏ hàng ngũ cách mạng, đi làm một tay sai lợi hại cho tư sản phản động. Từ một người trông có vẻ hiền lành nho nhã’ kéo lê một cái xác thịt hưởng lạc, hiếu danh, hiếu sắc, thèm tiền trong các tiệm trà, tiệm cà phê, tửu quán, đầu óc vẫn đục, đen tối bởi những ý nghĩ phản động, tôi đã rất nhanh chóng biến thành một con rắn độc cắn lại cách mạng\" Văn Nghệ 12, tháng 5-1958. Chính tác giả Quốc ca, Văn Cao, cũng phải viết \"Tôi đã bị mất dần phẩm chất cách mạng, mù quáng đến chỗ không thấy được sự phản ứng của chủ nghĩa tư bản với sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai từ bên ngoài vào. Trong khi các đồng chí đang phải tích cực đấu tranh với những âm mưu của nhóm Nhân văn-Giai phẩm’ thì tôi đã tự biến mình thành tay trong của bọn cầm đầu Nhân văn- Giai phẩm’ hoạt động trong nội bộ Đảng. Tôi thật có tội với nhân dân, với Đảng. Tôi vô cùng hối hận\" Văn Học số 3, ngày 15-6-1958. 39 Bọn Nhân văn – Giai Phẩm trước Tòa án Dư luận, Nhà Xuất bản Sự thật 6-1959, trang 31. 40 Theo Đại tá Thái Kế Toại. 41 Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 215. 42 Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 453. 43 Trong những năm học Cao đẳng Sư phạm, Nguyễn Hữu Đang viết và biên tập cho các báo của Mặt trận Dân chủ như Thời báo, Ngày mới và báo Tin tức của Đảng Cộng sản. Từ năm 1938 ông là một trong những cán bộ chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Tháng 47/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính 8-1945, tại Đại hội Quốc dân ở Tân Trào, ông được bầu vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Trung ương, một hình thức chính phủ đầu tiên của Việt Minh. Khi Việt Minh cướp được chính quyền, đích thân Hồ Chí Minh giao ông làm trưởng Ban Tổ chức Ngày tuyên bố Độc lập 2-9. 44 Theo Đại tá Thái Kế Toại. 45 Theo Nhật ký ngày 14-12-1956 của Nguyễn Huy Tưởng \"Bây giờ họ họp nhau, chỉ để bàn cách trang trải số nợ với các đại lý. Vì công đoàn vận động công nhân không in, báo không được ra, phải trả lại tiền đại lý. Có người đã đến cửa nhà Nguyễn Hữu Đang đòi. Bàn xem lấy tiền đâu. Đóng góp thì ít có tiền. Vay tư sản thì họ giữ kẻ. Thế mà Trung ương bảo mỗi đứa, mỗi bài được trả 8, 9 vạn. Đi ăn tiệc với Pháp, trường A. Sarraut trợ cấp...\". Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 178. Cũng trong ngày 14-12-1956, Nguyễn Huy Tưởng viết \"Anh em lo nhất cho Nguyễn Hữu Đang mấy hôm nay gầy guộc. Lo trang trải công nợ, không thể đi đâu được. Không trả thì sẽ bị quy kết là bội tín\". Theo ông Tưởng thì để trả nợ nhà in, Nguyễn Hữu Đang đã phải bán quần áo đi để lấy tiền. Ông đã phải viết giấy xác nhận Tôi Nguyễn Hữu Đang nhận bán cho ông… bộ quần áo này\" Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 178. 46 Trong bài \"Cần phải chính quy hơn nữa\", đăng trên báo Nhân Văn số 4, Nguyễn Hữu Đang viết \"Hòa bình lập lại đã hai năm, dù cuộc đấu tranh thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế nào thì cũng không thể coi miền bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy trì mãi một nền pháp trị thiếu hẳn hoi… Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở nhà rộng phải nhường một phần cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và đe dọa chính trị trắng trợn\". 47 Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. 48 Trong cuốn Ba Phút Sự Thật, Phùng Quán viết \"Tôi dắt xe đạp 48/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng…\". Ông Đang sống \"trong một cái chái bếp, căn hộ độc thân của anh rộng chỉ khoảng năm mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai\". Đấy là chùm lục lạc \"học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu\", ông Đang \"chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần\", để \"đi lại trong đường làng những đêm tối trời\" không còn \"bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào\". Công dụng thứ hai, theo Phùng Quán \"Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc\". Mãi tới năm 1993, sau vận động của nhiều nhà lãnh đạo đã từng hoạt động cùng ông Nguyễn Hữu Đang. Nhà nước đã cấp cho ông một căn hộ ở gần Cầu Giấy, Hà Nội và bắt đầu cho ông được hưởng lương hưu. 49 Sau khi Việt Minh nắm quyền, Nguyễn Mạnh Tường được mời dạy văn chương Tây phương tại Trường Đại học Văn khoa do ông Đặng Thai Mai làm hiệu trưởng. Năm 1946, Nguyễn Mạnh Tường được Hồ Chí Minh mời tham gia đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông từng tham dự Hội nghị Bảo vệ Hòa bình Châu Á-Thái Bình Dương, năm 1952, Đại hội Hòa bình Thế giới, năm 1953. Năm 1956, tại Hội nghị Luật gia Dân chủ Thế giới họp ở Bỉ, ông Nguyễn Mạnh Tường đã bảo vệ lập trường cho miền Bắc Việt Nam. 50 Ngày 4-6-1958, Tố Hữu nói \"Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hòa bình vừa lập lại. Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong Phòng Văn nghệ Quân đội\" Bọn Nhân văn - Giai phẩm 49/504 12/16/2020 Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính trước Tòa án Dư luận, Nhà Xuất bản Sự thật tháng 6-1959, trang 23. 51 Phạm Huy Thông viết \"Trần Đức Thảo, ở trong đại học và ở ngoài đại học, lúc nào cũng lớn tiếng đòi trả chuyên môn cho chuyên môn, đòi trục xuất chính trị ra khỏi địa hạt của chuyên môn… Vậy mà nội bộ nhóm Nhân Văn, Thảo chống chủ trương \"văn nghệ phải phục vụ chính trị\". Điều ấy có ý nghĩa là Thảo không phải chống quan điểm chính trị lãnh đạo chuyên môn mà là chống chính trị cách mạng lãnh đạo chuyên môn… Thảo thường tự kiêu về tài học, về hoạt động chính trị của Thảo khi còn ở nước ngoài. Thật ra thành tích học thuật cũng như thành tích chính trị của Thảo ở Pháp trước đây, nhìn lại toàn là những thành tích bất hảo. Mất gốc rễ dân tộc… Năm 1944-1945 Thảo cũng có tham gia phong trào yêu nước của Việt kiều ở Pháp lúc đó, Thảo có lần khoe sự tham gia của Thảo khác hẳn sự tham gia của mọi người. Khác thật, khác ở chỗ trong khi mọi người đóng góp phần mình một cách giản dị, tự nhiên, thì Thảo tìm cách bắt loa tuyên truyền, đề cao uy tín cá nhân… Trước khi về nước để gây dựng thêm uy thế làm \"vốn chính trị\" về sau, Thảo đã làm một việc chẳng thơm tho gì. Đó là vụ kiện Giăng Pôn Xác. Xác có đề nghị với Thảo và một môn đệ khác nữa, ba thầy trò cùng viết chung một cuốn sách. Sách soạn được nửa chừng, Xác thấy trình độ kém, e sách ế, thôi không xuất bản nữa. Thảo cay cú vì vừa mất ăn, vừa bị chê, bèn tung dư luận rằng mình tranh luận với Xác. Xác thua nên không dám xuất bản sách và đòi kiện\" Báo Nhân Dân ngày 4-5-1958. 52 Trần Đức Thảo viết \"Kiểm điểm lại việc làm từ mùa thu năm 1956, tôi vô cùng đau xót. Những sai lầm, tội lỗi của tôi thuộc về vấn đề lập trường, quan điểm. Hoạt động trong nhóm Nhân văn tôi đã tụt xuống cái lập trường xét lại của tôi ngày còn ở bên Pháp và tham gia nhóm Thời hiện đại’ Les Temps moderns của Giăng Pôn Xác Sartre Tôi đã mất cái phần tiến bộ mà tôi đã tiếp thu trước kia nhờ công trình kháng chiến của nhân dân và lãnh đạo của Đảng. Thực tế là tôi đã biện hộ cho giai cấp tư sản và gây tác hại rất lớn. Trước kia tôi không ngờ rằng tôi có thể có ảnh hưởng đến thế. Bây giờ tôi mới thấy rõ. Tôi rất đau xót và xin nhận lỗi trước Đảng và trước nhân dân\" Nhân Dân số ra ngày 23 và 24-5-1958. 53 Chân dung của Trần Đức Thảo được Phùng Quán ghi lại qua \"lăng kính\" của một \"bà cụ móm, chủ quán nước dưới một gốc cây xà cừ\" trong khu tập thể Kim Liên \"Đằng kia-nhà B6-cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác, quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, 50/504
HUY ĐỨC – Bên Thắng Cuộc – tập I GIẢI PHÓNG PHẦN MỞ ĐẦU mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MỘT mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương HAI mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương BA mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương BỐN mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương NĂM mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương SÁU mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương BẢY mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương TÁM mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương CHÍN mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI MỘT mời click vào đường link dưới đây để đọc HUY ĐỨC – Bên Thắng Cuộc – tập II QUYỀN BÍNH MỞ ĐẦU mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI HAI mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI BA mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI BỐN mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI LĂM mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI SÁU mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI BẢY mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI TÁM mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương MƯỜI CHÍN mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương HAI MƯƠI mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương HAI MƯƠI MỐT mời click vào đường link dưới đây để đọc Chương HAI MƯƠI HAI hết mời click vào đường link dưới đây để đọc
Thế hệ khác Chân dung của những nhà lãnh đạo đương thời; những thay đổi về bản chất cầm quyền của Đảng cộng sản Người kế nhiệm/ Kinh tế tập đoàn/ Nông Đức Mạnh/ “Phương án” Nguyễn Văn An/ Sở hữu toàn dân Cho dù trong Bộ chính trị khoá X 2006-2011 vẫn có những người trưởng thành quachiến tranh, họ bắt đầu thuộc thế hệ “làm cán bộ” chứ không còn là thế hệ củanhững “nhà cách mạng”. Nếu có khả năng nắm bắt các giá trị của thời đại và cókhát vọng làm cho người dân được ngẩng cao đầu, họ hoàn toàn có cơ hội chính trịđể đưa Việt Nam bước sang một trang sử mới. Ngay cả khi duy trì phương thức nắm giữ quyền bínhtuyệt đối hiện thời, nếu lợi ích của nhân dân và sự phát triển quốc gia được đặt lên hàng đầu, họ cóthể trao cho người dân quyền sở hữu đất đai, lấy đa sở hữu thay cho sở hữu toàn dân; họ có quyềnchọn phương thức kinh tế hiệu quả nhất làm chủ đạo thay vì lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Vẫncòn quá sớm để nói về họ. Khi cuốn sách này ra đời, họ vẫn đang nắm giữ trong tay mình vận hộicủa chính họ và đất nước. Tiếp tục đọc →
Download Free PDFDownload Free PDFBên Thắng Cuộc Cuốn I Giải Phóng Cuốn 2 Quyền BínhBên Thắng Cuộc Cuốn I Giải Phóng Cuốn 2 Quyền BínhBên Thắng Cuộc Cuốn I Giải Phóng Cuốn 2 Quyền BínhBên Thắng Cuộc Cuốn I Giải Phóng Cuốn 2 Quyền BínhOanhnk Oanh
bên thắng cuộc phần 2 chương 22